nơ hoa bằng lụa crêpe và hai chiếc ruy băng màu cờ tam tài. Bà phủ những
thứ này viền quanh các khung ảnh. Đúng lúc ấy, có tiếng nức nở của vú em
đang đứng ở ngưỡng cửa, ôm Emmanuel trên tay. Jacqueline và Bernard
cũng bật khóc. Bà Péricand vòng tay ôm hai đứa, nhẹ nhàng kéo chúng
đứng dậy và dẫn chúng ra đến bàn.
- Các con yêu của mẹ! Hãy nhìn kỹ hai anh của các con. Hãy xin Đức
Chúa gia ân cho các con được giống hai anh. Hãy cố gắng được như hai
anh là những đứa con ngoan, vâng lời và chăm chỉ. Hai anh đã từng là
những đứa con thật ngoan, - bà Péricand nói, giọng nghẹn lại vì đau đớn, -
cho nên mẹ không lạ khi Chúa đã ban thưởng hai anh bằng cách trao cho
hai anh niềm vinh quang của kẻ tuẫn đạo. Không nên khóc. Hai anh đang ở
bên Đức Chúa; hai anh nhìn thấy chúng ta, hai anh che chở cho chúng ta.
Hai anh sẽ đón chúng ta trên đó, và trong lúc chờ đợi, ở dưới này, chúng ta
có thể tự hào về hai anh, với tư cách là những người Cơ Đốc giáo và những
người Pháp.
Giờ thì tất cả mọi người đều khóc; đến cả cụ bà Craquant cũng bỏ chén
sô cô la của mình và tay run run tìm khăn mùi soa. Bức chân dung của
Philippe trông giống lạ lùng. Đó đúng là ánh mắt sầu thẳm và trong sáng
của ông. Có vẻ như ông đang lặng ngắm những người thân của mình với nụ
cười dịu dàng mà thỉnh thoảng ông vẫn có, khoan dung và trìu mến.
- ... Và trong lời cầu nguyện của các con, - bà Péricand kết thúc, - đừng
quên những đứa trẻ khốn khổ đã mất tích cùng với anh con.
- Có thể không phải tất cả bọn họ đều đã chết?
- Có thể như vậy, - bà Péricand lơ đãng nói, - rất có thể. Những đứa trẻ
tội nghiệp... Mặt khác, cái viện từ thiện này là một trách nhiệm nặng nề, -
bà nói thêm, và ý nghĩ của bà lại quay trở về với bản di chúc của ông bố
chồng bà.
Cụ bà Craquant lau mắt.
- Cái thằng bé Hubert... nó thật là dễ thương, thật là hay đùa. Mẹ nhớ,
một hôm, khi các con đến đây chơi, mẹ ngủ thiếp đi ở phòng khách sau bữa
ăn trưa, và thế là cái thằng ranh mãnh ấy nó liền tháo cái giấy bẫy ruồi gắn