đâu...), ở chỗ chúng; tôi, người ta đặt người chết lên những cái giường như
thế này.
Bonnet nhìn anh, vẻ thích thú, với đôi chút thương hại khinh miệt mà
người ta thường cảm thấy khi nhìn một con thú dữ nghiến răng kèn kẹt phía
sau những chấn song sắt của một cái chuồng. “May thay,” hắn nghĩ, “người
đàn ông này bận việc, sẽ không ở nhà thường xuyên... và đám đàn bà thì dễ
tiếp cận hơn.” Hắn mỉm cười:
- Vào thời chiến, chẳng ai trong chúng ta lại hy vọng chết trong một
chiếc giường.
Trong lúc đó, Madeleine vừa mới đi ra vườn; cô trở vào với những bông
hoa để bày trên lò sưởi. Đó là những nhành tử đinh hương đầu mùa, trắng
như tuyết, những nhánh phía trên ngả xanh, gồm những nụ nhỏ san sát và
còn khép kín, những nhánh phía dưới thì nở ra thành những chùm ngát
hương. Bonnet vục khuôn mặt nhợt nhạt của hắn vào bó hoa.
- Thật tuyệt vời... và bà cắm hoa sao mà khéo thế...
Trong giây lát, họ đứng cạnh nhau không nói năng gì. Benoît nghĩ rằng
cô ấy (vợ anh, Madeleine của anh) có vẻ như luôn luôn thoải mái khi làm
những việc của các bà quý phái - khi cô chọn hoa, đánh bóng móng tay,
chải đầu theo một kiểu không giống các phụ nữ trong vùng, khi cô nói
chuyện với một người lạ, khi cô cầm một cuốn sách... “Lẽ ra không nên lấy
một cô gái vốn được sở Cứu tế nuôi, chẳng biết nguồn gốc thế nào cả,” đã
không chỉ một lần anh đau đớn tự nhủ, và khi anh nghĩ “chẳng biết nguồn
gốc thế nào cả,” điều mà anh hình dung, điều mà anh lo sợ không phải là
một dòng họ nghiện ngập hay trộm cắp, mà là cái này đây, cái dòng máu tư
sản khiến cho cô cứ thở dài: “Ôi, sống ở nhà quê sao buồn thế...” hoặc “Em
thì em muốn những thứ đẹp đẽ cơ...”, và gắn két cô bằng một sự đồng cảm
mơ hồ với một người không quen biết, với một kẻ thù, chỉ cần đó là một
người đàn ông thuộc tầng lớp trên, mặc quần áo trang nhã và có đôi bàn tay
sạch sẽ.
Anh xô mạnh chiếc ghế đang ngồi và đi ra. Đã đến giờ nhốt gia súc. Anh
ở lại hồi lâu trong bóng tối và bầu không khí ấm áp của chuồng gia súc.
Một con bò cái vừa đẻ hôm trước. Nó dịu dàng liếm vào cái đầu to tướng,