thích của bà Radzinski. Có lẽ bà ấy định sang chỗ Kingman để nằm an nghỉ
tại căn phòng tuyền tím của ông ta.”
“Đừng đùa, Lester. Rõ ràng em nghe có tiếng mà.”
“Anh biết. Nếu lại là con mèo đó, anh nghĩ có khi nên nuôi nó thôi. Bố
thường phải đi xuống nhà để lo chuyện chuột quấy phá.”
Sarah trầm ngâm. “Nghe không tồi đâu, Lester. Sao anh không cầm theo
ít sữa nhỉ? Nếu anh cho nó ăn một lần, nó sẽ dính với anh luôn đấy. Anh
muốn em đi cùng không? Em có duyên với động vật lắm.”
“Thôi, để anh lo. Em không việc gì phải dậy hết. Cứ ngủ tiếp để mai còn
lo đối phó với bà Wallace. Bà ấy có vài ý tưởng gì đó cho dịch vụ tang lễ
mà chắc là điên khùng lắm đây, và anh không át nổi bà ta.”
“Âm nhạc hả?”
“Không chỉ thế. Giờ bà ấy muốn một thuê thuyền và thủy táng đứa con
ngoài biển. Và bà ấy nhất định muốn quay phim toàn bộ tang lễ để sao ra
đưa cho bạn bè.”
“Ôi Lạy Chúa!” Sarah kéo chăn lên tận cằm. “Được rồi, Lester. Em sẽ cố
nói phải quấy với bà ấy vậy. Nhưng cẩn thận với con mèo đó nhé? Anh
không biết nó mang bệnh tật gì, và nó có thể truyền bệnh khi cào anh đấy.”
“Anh sẽ cẩn thận.” Lester mặc áo choàng ngủ và xỏ dép, rồi vào bếp lấy
ít sữa. Ông quyết định quay ấm lên trong lò vi sóng, vậy nên ông trở vào
phòng ngủ để hỏi Sarah xem nên đặt bao nhiêu giây.
“Sarah?” Lester ngó đầu vào, nhưng vợ ông đã ngáy khe khẽ. Ông
ngưỡng mộ sự dễ ngủ của Sarah. Ông ước mình cũng được thế, nhưng một
khi đã tỉnh, ông sẽ ráo hoảnh chừng hai tiếng. Ông không định gọi bà dậy
vì câu hỏi ngu ngốc của mình về lò vi sóng. Nếu con mèo đòi uống sữa
lạnh thì đành mặc kệ nó vậy.
Lester cẩn thận cầm cái bát và hộp các-tông bằng một tay trong lúc mở
cửa. Cầu thang tối om, nhưng ông không muốn bật đèn. Thế sẽ dọa con
mèo và ông sẽ không tìm ra nó nếu nó lủi vào trốn trong góc nào đó.