chết. Họ thường đứng sựng giữa phòng và chọn cái đầu tiên trong vài mẫu
bày trước hết. Và theo lẽ tự nhiên, đó là chỗ Lester bày những cỗ quan tài
đắt nhất.
“Này, mèo con, mèo con.” Lester bước dọc hành lang và gọi khe khẽ,
nhưng không có tiếng meo meo nào đáp lại. Ông đang đứng bên các mẫu
tầm trung tiền giờ được hầu hết người dân ưa chuộng. Lester đã nghĩ ra
cách nâng giá bằng cách cố tình mua về hai mẫu tầm trung sơn màu sắc
giản dị. Cái bên trái màu tím hồng còn bên đối diện màu nâu sẫm. Nó suýt
gây tác dụng ngược vào lần đầu tiên với bà Radzinski. Nhưng gia đình đã
quyết định đặt hàng riêng sau khi ông bảo rằng nước da người mẹ yêu dấu
của họ không hợp với nệm màu hồng tím bên trong quan tài.
Lester lại gọi con mèo, và một lát sau, ông nghe có tiếng lạo xạo hình
như phát ra từ tiền sảnh. Con mèo đang ở một trong các phòng thăm viếng
và ông rất mong nó không định nhảy trúng xác người quá cố. Theo như ông
biết thì mèo dám làm thế lắm. Chúng sẽ chẳng ngại nằm cạnh người chết
đâu. Lester tắt đèn và vội vàng men theo hành lang xuống xem sao. Ông rất
ngại phải trang điểm lại nếu xác chết có bề gì.
Có ba phòng viếng. Họ sử dụng phòng nhỏ cho những đám tang có quy
mô nội tộc. Phòng thứ hai lớn hơn, có ghế bành và bàn nhỏ để tang quyến
có chỗ nghỉ ngơi. Phòng viếng lớn nhất có một chỗ chia buồn ở cuối phòng,
và họ sẽ bày ghế gấp ra nếu người ta tới. Robinson và Con trai không đời
nào dùng loại ghế rẻ tiền. Sarah đã lùng sục khắp vùng để tìm cho ra loại
ghế gấp có nệm ngồi và tay vịn hẳn hoi. Nếu không thấy mấy cỗ quan tài,
chắc người ta sẽ chẳng biết mình đang trong nhà tang lễ.
Các quan tài được đặt trên các bục kim loại có thể gập gọn, nhẹ và vững
chãi. Sarah phủ vải nhung trên bục để che đi các thanh chống và bánh xe.
Xung quanh được bài trí những cây cọ giả, loại đắt tiền trông cực kì tự
nhiên dù chúng được làm bằng nhựa có thể lau rửa được.
Lester tới cửa căn phòng cỡ trung và bật đèn. Căn phòng bừng sáng nhờ
ánh sáng dịu tỏa ra từ những ngọn đèn màu hoa hồng. Đó là ý tưởng của