Rồi sau đó – và âm thanh ấy còn lớn hơn cả tiếng sóng – là tiếng
chồng tôi khóc.
Hai năm sau, ngồi tại chiếc bàn ở Kingston-mạn-trên-Thames, tôi
nhận ra mình vẫn còn nghe thấy nó. Tôi nhìn xuống bàn tay bị thương
tật của mình, xòe úp xuống khăn trải bàn màu xanh dương.
Ong Nhỏ đã ngủ quên trên ghế sofa, cốc G&T còn nguyên bên cạnh.
Tôi nhận ra mình không nhớ thời điểm nào cô bé dừng kể chuyện, còn
tôi đã kể tiếp bằng hồi ức của mình. Tôi đứng lên từ bàn ăn để pha cho
mình một cốc rượu nữa. Không có chanh, vì thế tôi dùng tạm một chút
nước ép sền sệt như nhựa từ nước ép chanh hiệu Jif trong tủ lạnh. Khi
tôi nâng chiếc cốc lên, những viên đá kêu lanh canh không kiểm soát.
Rượu G&T có vị thật tởm nhưng nó tiếp dũng khí cho tôi. Tôi nhấc
điện thoại lên và bấm số của người đàn ông mà tôi cho rằng mình phải
gọi là “tình nhân”, dù từ đó khiến tôi lúng túng.
Tôi nhận ra đây là lần thứ hai tôi gọi điện cho Lawrence trong ngày
hôm đó. Tôi đã cố gắng không làm thế. Tôi đã kiềm nén được gần một
tuần, kể từ khi Andrew chết. Đó là khoảng thời gian tôi chung thủy với
chồng dài nhất trong nhiều năm qua.
“Sarah? Là em à?”
Giọng Lawrence thì thầm. Cổ họng tôi thắt lại. Tôi nhận ra mình
không nên trả lời ngay.
“Sarah? Anh đã nghĩ đến em cả ngày hôm nay. Có kinh khủng lắm
không? Lẽ ra em nên để anh đến đám tang.”
Tôi nuốt nước bọt. “Như thế sẽ không hợp đạo lý lắm.”
“Ôi, Sarah, có ai biết đâu?”
“Em biết, Lawrence ạ. Bây giờ em đâu còn gì khác ngoài lương
tâm.”