đó trong nụ cười của Ong Nhỏ, và lòng nhiệt thành của cô bé, khiến tôi
dường như phải lòng nó. Và thế là tình yêu đã làm tất cả chúng tôi mù
quáng. Suốt một tuần, tôi đã thực lòng nghĩ rằng mình là một người tốt
hơn, một người có thể tạo ra sự khác biệt. Tôi hoàn toàn quên mất mình
chỉ là một phụ nữ trầm lặng, thực tế, mất người thân, một phụ nữ tập
trung cao độ vào công việc của mình. Tôi đã quên tiệt đi rằng chẳng có
ai là anh hùng cả, rằng tất cả mọi người đều dính chàm. Thật kì cục
phải không? Vậy bây giờ tôi có thể nào xin lại cuộc đời cũ của tôi
không?
Xa xa trên bãi cỏ, theo tiếng gió vọng về, là tiếng chó sủa. Ong Nhỏ
nhìn qua và thấy tôi. Tôi tiến thẳng đến chỗ con bé và Lawrence.
Tôi dang tay ra với cả hai người, nhưng rồi nhận ra Charlie không ở
đấy với họ.
“Ừm, Charlie đâu rồi?”
Thật đau lòng khi nghĩ đến chuyện ấy, ngay cả vào lúc này. Tôi tìm
khắp xung quanh, tất nhiên là thế. Tôi chạy lên chạy xuống. Tôi bắt đầu
gào tên Charlie. Tôi chạy quanh chu vi bãi cỏ, tìm trong bóng râm dưới
những cây đỗ quyên, kiếm trong đám lau sậy ở bờ hồ. Tôi gào đến khản
cả giọng. Không thấy tăm hơi con tôi đâu cả. Một cơn hoảng loạn đau
buốt trùm lấy tôi. Những phần tinh tế của não tôi bị tê liệt, những phần
có khả năng suy nghĩ. Tôi nghĩ lượng máu chảy đến những phần đó đã
tạm thời bị khóa và chuyển hướng sang mắt, chân, và phổi. Tôi tìm, tôi
chạy, tôi gào lên. Và trong tim tôi suốt thời gian ấy là một nỗi sợ lớn
dần: một sự chắc chắn không thể nói thành lời rằng có người đã bắt cóc
Charlie.
Tôi chạy dọc một con đường mòn và gặp một gia đình đi dã ngoại
đang cắm trại ở bãi đất trống. Người mẹ - có mái tóc dài màu nâu vàng
với phần đuôi tóc rối – ngồi khoanh chân trên một tấm thảm len kẻ ô
vuông, xung quanh là vỏ và những múi quýt chưa ăn hết. Cô ta đang
đọc Tạp chí Âm nhạc BBC. Cô mở quyển tạp chí trên thảm, đè nó