vẫn còn tự do. Tôi nghĩ đến hình ảnh chị ấy đi bộ trên đường phố
London, mang đôi dép màu tím, chân mày vẽ bằng chì kẻ, chị mua nửa
kí cá muối và ngước mặt lên bầu trời xanh mà cười phá lên, WU-ha-ha-
ha-ha! Và tôi mỉm cười.
Người phụ nữ không phải là Yevette tỏ vẻ tức giận với tôi. Mày bị
làm sao thế? Mày tưởng họ cho chúng ta đi chơi à?
Tôi mỉm cười. Phải, tôi đáp. Đây là kì nghỉ của cả cuộc đời.
Cô ta quay lại và không nói chuyện với tôi nữa, và khi họ gọi cô
đứng dậy để lên máy bay, cô bước đi không gây sự gì và cũng không
ngoái nhìn tôi lấy một lần.
Khi thấy cô đi, tôi mới nhận ra đây là chuyện có thật và lần đầu tiên
tôi đâm ra sợ hãi. Tôi sợ phải trở về. Tôi khóc và nhìn nước mắt của
mình ngấm vào lớp thảm nâu dơ bẩn.
Họ không cho chúng tôi thức ăn hay nước uống, và tôi lả đi vì đói.
Vài giờ sau, họ đến đưa tôi đi. Họ dẫn tôi lên thẳng máy bay. Những
hành khách khác, những hành khách mua vé, bị yêu cầu đứng lùi lại khi
tôi đặt những bước đầu tiên lên thang máy bay. Mọi người nhìn tôi
chằm chằm. Họ đưa tôi đến phần đuôi máy bay, đến hàng ghế cuối
cùng ngay trước phòng vệ sinh. Họ đặt tôi ngồi xuống cạnh cửa sổ và
một người lính gác ngồi xuống cạnh tôi, một người đàn ông to béo đầu
trọc, đeo khuyên tai vàng. Ông ta mặc áo thun Nike màu xanh, quần
Adidas đen. Ông tháo còng tay cho tôi, và tôi xoa cổ tay để máu lưu
thông xuống bàn tay.
“Xin lỗi,” người đàn ông nói. “Tôi cũng chẳng thích thú công việc
chết tiệt này tí nào.”
“Vậy tại sao ông lại làm việc này?”
Người đàn ông nhún vai và cài dây an toàn.
“Công việc để mưu sinh thôi mà, phải không nào?” Ông nói.