cầu thang kêu cót két, phòng làm việc của Andrew có màu trắng – màu
của những trang giấy trắng, trong suy nghĩ của tôi. Đó là nơi tôi tìm
thấy anh, sau cú điện thoại đáng sợ. Tôi đọc vài chữ trong bài chuyên
mục của anh, từ sau lưng anh. Anh đã thức suốt đêm để viết một bài
bình luận về Trung Đông, khu vực mà anh chưa bao giờ đặt chân đến
và cũng chẳng hề có kiến thức chuyên môn gì. Đó là mùa hè năm 2007,
con trai tôi đang đánh nhau với Chim cánh cụt và Puffin, đất nước tôi
đang đánh Iraq và Iran, còn chồng tôi đang định hướng công luận. Đó
là kiểu mùa hè mà không ai cởi trang phục của họ ra.
Tôi lôi chồng rời khỏi điện thoại. Tôi nắm cọng tua rua trên áo ngủ
của anh để lôi anh vào phòng ngủ, vì tôi đã đọc ở đâu đó rằng chiêu này
có thể làm anh hưng phấn.
Tôi kéo anh xuống giường.
Tôi nhớ cách anh di chuyển bên trong tôi, như chiếc đồng hồ có kim
giờ bị liệt. Tôi kéo mặt anh lên gần mặt mình và thì thầm, Ôi, Chúa ơi,
Andrew, anh có sao không? Chồng tôi không trả lời. Anh chỉ nhắm
nghiền mắt để ngăn nước mắt rơi ra. Chúng tôi bắt đầu chuyển động
nhanh hơn khi những tiếng rên nhỏ miễn cưỡng phát ra từ miệng người
này và chạy trốn vào tiếng rên của người kia trong sự tuyệt vọng không
thành lời.
Giữa bi kịch nhỏ này, con trai tôi bước vào. Thằng bé đang tham gia
vào cuộc chiến chống kẻ xấu ở nhà trên quy mô lớn hơn, dễ hạ gục
hơn. Tôi mở mắt ra thì thấy nó đứng ở lối vào phòng ngủ, nhìn chúng
tôi qua hai hốc mắt nhỏ hình thoi của chiếc mặt nạ dơi. Từ biểu lộ trên
phần mặt có thể nhìn thấy được của nó, có vẻ như nó đang thắc mắc
thiết bị nào (nếu có) trên chiếc đai lưng đa dụng có thể hữu ích trong
tình huống này.
Khi trông thấy con trai, tôi đẩy Andrew ra khỏi người rồi quáng
quàng tung chăn lên che cả hai lại. Tôi nói, Ôi, Chúa ơi, Charlie, mẹ
xin lỗi.