ngồi xổm ở cổng chính của trại giam. Hàng rào chạy dài khỏi chúng tôi
sang hai phía. Nó cao cỡ bốn người đàn ông, trên có gắn dây thép gai
cuộn thành những vòng đen xù xì. Tôi nhìn ba cô gái còn lại và bắt đầu
cười khúc khích. Yevette đứng dậy, chống nạnh và trợn mắt nhìn tôi.
“Cô em cười quái rì há, Bọ Nhỏ?”
“Tên em là Ong Nhỏ mà Yevette, em cười cái hàng rào này này.”
Yevette ngước lên nhìn nó.
“Giời ơi, cô em, người Nye-jirrya các cô tệ cả bề ngoài lữa. Em nghĩ
hàng giào lày buồn cười há, chị chỉ hi vọng ứ thấy cái giào lào em bẩu
nà nghiêm khắc.”
“Là dây thép gai ấy, Yevette ạ. Ý em là, hãy nhìn lũ con gái chúng ta
mà xem. Em với đồ lót trong một cái túi nhựa trong suốt, chị thì mang
dép xỏ ngón, chị gái này thì mặc áo sari vàng thật đẹp, còn chị này thì
đem theo tài liệu. Trông chúng ta có giống như leo được qua hàng rào
ấy không? Nói thật nhá, họ có thể tháo mớ dây thép gai ấy ra, đặt
những đồng bảng Anh và những quả xoài tươi trên nóc hàng rào, mà
chúng ta vẫn không thể leo ra ngoài được.” Giờ thì Yevette phá ra cười,
WU-ha-ha-ha-ha, rồi cô xỉa ngón tay để mắng tôi.
“Con bé rở hơi lày! Em tưởng họ xây giào lày để nhốt đám con gái
bọn ta bên trong há? Rở hơi há? Họ xây giào lày nà để ngăn nũ trai ở
ngoải. Nũ trai í biết giá trị của đám đàn bà rọ nhốt trong lày, nũ í sẽ
tông cửa vào!”
Tôi cười, nhưng rồi cô gái với tập tài liệu lên tiếng. Cô đang ngồi
xổm và nhìn xuống đôi giày thể thao Dunlop Green Flash của mình.
“Chúng ta đi đâu bây giờ?”
“Taxi chở đâu thì đi đó, cậu ứ hiểu há? Rồi liền tính tiếp. Nàm bộ
mặt héo đó tươi tỉnh nên đi, cưng! Bọn ta sẽ đến đó, ở Anh.”