nói chuyện một chút về quê hương mình và nơi chúng tôi sẽ đi. Bà chỉ
cho tôi đường đến Kingston-mạn-trên-Thames, nhưng bà cũng bảo tôi
không nên đi. Cháu sẽ không muốn đi đến vùng ngoại ô đâu, cháu gái
ạ, bà nói. Chẳng phải nạc cũng chẳng phải mỡ, những khu ngoại ô đấy.
Toàn những chốn không tự nhiên, toàn những người không tự nhiên.
Tôi cười, và đáp, Có lẽ cháu sẽ hòa nhập được ngay.
Người vợ rất ngạc nhiên khi chúng tôi xin năm cái đĩa thay vì bốn
cái, nhưng bà vẫn đem đến. Chúng tôi chia thức ăn thành năm phần, và
dành phần to nhất cho con gái của cô không tên, vì nó vẫn còn đang
lớn.
Tối hôm đó tôi nằm mơ thấy làng tôi trước khi bọn người kia đến.
Có một chiếc xích đu do bọn con trai làm. Nó là một cái vỏ bánh xe ô
tô cũ, bọn con trai đã buộc dây thừng xung quanh và treo nó lên một
cành cây cao. Đó là một cây limba già rất to, cách nhà chúng tôi không
xa, gần trường học. Từ khi tôi còn chưa đủ lớn để ngồi lên xích đu, mẹ
đã thường đặt tôi ngồi trên nền đất màu đỏ sậm cạnh thân cây limba, để
tôi có thể xem những đứa lớn hơn chơi xích đu. Tôi thích nghe tiếng
chúng cười và hát. Hai, ba, bốn đứa trẻ một lúc, cùng bay lên, chân và
tay và đầu vướng víu vào nhau và kéo xềnh xệch trên rãnh đất đỏ ở đáy
vỏ bánh xe. Á! Oái! Tránh ra xem nào! Đừng đẩy chứ! Lúc nào cũng
có tiếng nói chuyện và nô đùa xung quanh xích đu, và phía trên đầu tôi,
trên những cành cây limba là những chú chim mỏ sừng quát lại chúng
tôi. Nkiruka thỉnh thoảng lại xuống khỏi xích đu và bế tôi lên rồi cho
tôi những miếng bột sống be bé mềm mại để tôi bóp bằng những ngón
tay mũm mĩm của mình.
Tất cả chỉ có niềm vui và ca hát khi tôi còn là một đứa bé. Có rất
nhiều thời gian cho việc đó. Chúng tôi không cần phải vội. Chúng tôi
không có điện hay nước sạch, cũng không có nỗi buồn, vì chưa có thứ
nào trong số đó được nối đến làng chúng tôi. Tôi ngồi giữa đám rễ của
cây limba và cười sằng sặc khi nhìn chị Nkiruka đung đưa ra trước rồi
ra sau, trước rồi sau. Dây đu rất dài vì thế khá lâu chị mới đi hết từ đầu