tôi thậm tệ, ngay cả chính ba má tôi cũng ghét nữa. Ba thì đã đành. Má thì
còn phức tạp hơn.
Thế đấy, tình cảnh là vậy đó, tôi sẽ kể tiếp câu chuyện khủng khiếp đã xảy
ra liền ngay đây. Tôi và ba má sống trong một căn hộ ở vùng ngoại ô một
thành phố không lớn lắm, khu công nghiệp Yorkshire. Khi tôi nhắc tới vùng
này với người London, nếu họ không bảo rằng chưa từng nghe đến nó, thì
cũng nghĩ rằng nó nằm trong thành phố Dales bởi vì đó là khu Yorkshire duy
nhất mà họ biết. Nhưng không có quán trà kiểu cổ nào ở quanh khu chúng
tôi. Từ cửa sổ phòng ngủ tôi thấy được hai mỏ than và những ngọn tháp làm
nguội của nhà máy điện. Những ngọn tháp lớn này trông giống như mấy cái
vại đựng cà phê nóng hôi hổi, có những cụm mây ngùn ngụt hơi nước chầm
chậm bốc lên. Giữa ngôi nhà và phần gần nhất của mỏ than là một đường xe
ô-tô và một đường sắt. Đường sắt này chạy về London. Các chuyến tàu réo
còi ầm ĩ dọc theo nó vào ban đêm. Khi nghe chúng, tôi lại nghĩ đến trò cờ
bạc thâu đêm suốt sáng; mấy gã béo phệ, giàu có bước ra khỏi một khách
sạn khổng lồ, đi vào khu Park Lane
mà không ý thức được giờ giấc hay
thậm chí ngày tháng gì cả.
Ngôi nhà của chúng tôi là một khối gạch trên một khu đất có khoảng năm
mươi hay một trăm khối gạch tương tự như thế. Dân cư sống trong đó đều
làm những công việc có dính dáng đến đường hỏa xa, hay nhà máy điện, hay
các mỏ than. Họ lái các xe ô-tô của công ty như những chiếc Vauxhall
Vectras, mặc đồng phục, cầm bảng kẹp hồ sơ, thủ những cái mũ bảo hộ và
đôi ủng thô để ra vào công trường. Ba tôi bán xi-măng. Đặc quyền của ông
là lấy xi-măng không mất tiền để xây một hòn non bộ. Một chiếc xe tải sàn
phẳng khổng lồ chạy đến chỉ để giao có mỗi một bao xi-măng.
Cửa trước của nhà chúng tôi khác với mọi cánh cửa của những ngôi nhà
khác. Nó được sơn màu gỗ với những ô vuông bằng kính giả kiểu cổ giống
như đáy chai. Các ngôi nhà kia có những thứ khác, như những cánh cửa
chớp chỉ để làm cảnh (quá hẹp để che đủ cửa sổ và thế nào đi nữa thì chúng
cũng được đóng đinh dính vào tường). Rồi dần dà các ngôi nhà bắt đầu