Kate đến đứng cạnh tôi bên cửa sổ. Cô mang lại chiếc ghế của đàn piano
rồi ngồi lên. Cô phủi phủi đôi chân trần, nói: “Cứ như là tận thế tới nơi rồi.”
Derek bước đến sau lưng chúng tôi. Hắn nói với Kate: “Anh mát-xa cổ em
nhé, nếu em thích thế.” Cái cách của hắn cứ như là hắn thật sự muốn nói
rằng: Cô mát-xa cổ cho Graham được thì giờ tôi mát-xa cổ của cô cũng
được. Nhưng Kate đáp: “Không, tôi không sao.”
Chúng tôi đứng nhìn qua cửa sổ. Không ai nói lời nào. Một người đàn bà
mặc chiếc áo lông không có tay áo và giày bốt màu vàng kén bướm đang hối
hả bước xuống phố. Một tay bà cầm chiếc di động, tay kia thì cầm cái loa.
Giày bốt của bà đạp lạo xạo lên mảnh kính vỡ. Trông bà ta như đang nhảy
múa dưới ánh đèn sân khấu. “Chú ý. Xin mọi người chú ý.” Tiếng loa vang
dội khắp nơi. “Đây là điều rất quan trọng. Có ai chứng kiến vụ rớt máy bay,
có ai thấy chiếc máy bay đâm xuống không? Chúng tôi cần quý vị thuật lại
nếu quý vị có chứng kiến.”
Và trước khi tôi kịp hiểu, Kate đập mạnh vào cánh cửa sổ la lớn. “Anh ấy
thấy. Ở đây này, chị ơi. Anh ấy chứng kiến. Anh ấy cứu đứa bé, chính là anh
ấy đấy!” Tôi có cố ngăn cô lại không? Lẽ ra tôi ngăn lại nhưng cô ấy quá
nhanh. Cô nhảy lên, vọt ra khỏi cửa đuổi theo người đàn bà cầm loa.
“Này, bà ơi. Chính là Graham Sinclair,” cô nói với bà cầm loa. Tôi đuổi
theo Kate ra đến ngoài đường, thật vậy đấy. Nhưng là để kéo cô lại. Quá
muộn rồi. Cô nói: “Đồng nghiệp Graham Sinclair của tôi đã cứu đứa bé trên
chương trình tin tức. Anh ấy… Ồ, anh ấy đây này!”
Có một vài người đang vây quanh bà cầm loa. Nhưng bà lại nhìn chằm
chằm vào mắt tôi. Bà hỏi: “Cậu là Graham à? Cậu đã cứu bé Ade? Thật là
hay quá. Cậu nói với chúng tôi vài lời nhé?”
Tôi hỏi: “Bé Ade?”
Bà ta đáp: “Đó là cái tên mà mấy cô y tá gọi nó. Nó khỏe rồi. Cậu có thể
cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra không?”
Tôi thật sự không muốn chuyện này xảy ra nhưng có nhiều lúc bạn phải
làm theo thôi. Họ đặt tôi đứng trước cửa sổ của tiệm và khi sau này tôi xem
lại mình trên tivi thì tôi thấy sau đầu tôi là cây đàn hiệu Bechstein. (Cậu