“Mày muốn nói gì vậy?” bà hỏi lại.
Tôi đáp: “Có thể con làm một điều gì đó. Má biết mà.” Má im lặng. Rồi
bà cúp máy. Thắng lợi.
Cơ hội tốt nhất cho tôi suy nghĩ là vào ngày thứ ba sau vụ rớt máy bay.
Tôi vừa thoát được má đêm hôm trước, khi tôi đến tiệm vào buổi sáng thì
Kate nói Derek gọi vào báo là hắn bị bệnh nên sẽ không đến. Thế nên chỉ có
tôi và Kate thôi. Rồi khi gã ăn mặc như Chúa Giê-su xuất hiện, Kate phải
gọi cảnh sát đến bắt gã đi, thì Kate dán bảng thông báo tiệm đóng cửa lên.
Rốt lại, chỉ còn có tôi và Kate.
Tôi đang suy nghĩ, tôi phải làm gì đó về vụ Jennifer Slater, thì Kate hỏi:
“Đầu gối anh sao rồi?”
“Ổn rồi,” tôi đáp, nhưng cô cứ buộc tôi duỗi chân ra trên cái ghế piano và
xăn ống quần lên để cô xem, rồi cô nắn bóp nó. Cứ như thế này thì làm sao
tôi có thể nghĩ đến Jennifer Slater cho được, nên tôi lại nghĩ về Kate. Như,
ví dụ nhé, đường rẽ trên tóc cô có hình chữ chi ngoằn ngoèo. Trước đây tôi
không hề chú ý đến nó nhưng khi cô đang cúi xuống thì tôi không thể không
nghĩ. Mái tóc còn được nhuộm nữa. Người ta cứ nghĩ rằng nó màu đồng như
dây điện nhưng thật ra nó lại màu đen, ở ngay chỗ ngoằn ngoèo đó thì lại
đen mun. Chân cô lại hơi cong vòng kiềng. Chúng thò ra khỏi váy như chạc
xương gà, chỉ có điều sậm màu hơn.
Khi đó tôi không biết cô bao nhiêu tuổi. Tôi đoán, có lẽ hai mươi lăm
chăng. Cô đã kiếm cho tôi cái thẻ căn cước để vào tiệm rượu mà không rắc
rối gì thì cô phải là khá lớn tuổi mới làm được những chuyện như thế. Tôi
biết cô không có cha và có một đứa em trai, nhưng nó đang bị nhốt trong trại
cải huấn trẻ em vì tội ăn cướp, thỉnh thoảng cô lại đi thăm nó cùng với mẹ.
Mẹ cô hát trong ban hợp xướng của nhà thờ mỗi Chủ nhật. Cô thì muốn
thành một người chơi đàn dương cầm. Hay giống như một nghệ sĩ dương
cầm. Không phải chơi trong ban nhạc mà là chơi nhạc cổ điển. Cô nói có cơ
hội loanh quanh bên các cây đàn đã là tốt rồi. Có lẽ việc nhận sự rung cảm ở
chúng làm cô chơi đàn hay hơn chăng. (Nếu quả thật cô biết chơi.)