qua, mây đã trôi đi. Lúc này, mọi người đều trông rõ hơn, nhất là trên mặt
nước.
Fernandez giúp Jessica và Nicky trèo vào xuồng. Jessica cảm thấy buồn
nôn, người run bần bật, hậu quả của việc giết Soccorro mấy phút trước đó.
Minh đứng trên bến quay hình, là người cuối cùng nhảy vào xuồng, trong
khi O’Hara tháo dây và dùng chèo đẩy thuyền ra xa bờ. Fernandez cầm mái
chèo thứ hai, cùng O’Hara bơi xuồng ra giữa sông.
Nhìn xung quanh, Partridge nhận thấy O’Hara đã sử dụng thời gian chờ đợi
một cách có hiệu quả. Một số thuyền bị dìm xuống nước ở gần bờ, những
chiếc khác trôi giạt mỗi chiếc một nơi.
“Tôi đã tháo bugi”, O’Hara chỉ mấy chiếc thuyền ở gần. “Chúng có thể vớt
thuyền lên, nhưng cũng mất thời gian. Tôi còn quăng mấy mô tơ xuống
sông”. “Khá lắm, Ken ạ!”. Quyết định để O’Hara đi cùng, Partridge nghĩ,
đã nhiều lần cho thấy là đúng.
Chiếc xuồng họ đang đi không có ghế ngồi, giống như thuyền mà Jessica,
Nicky và Angus đã đi lúc trước, “hành khách” ngồi trên những tám ván bắc
ngang lòng xuồng. Hai người chèo xuống ngồi ở phía đối diện, cố hết sức
đưa xuồng ra giữa sông. Khi Nueva Esperanza mờ dần trong ánh trăng,
dòng nước siết đã đưa xuồng trôi xuôi.
Lúc xuồng rời bến, Partridge nhìn đồng hồ: hai giờ ba mươi lăm phút sáng.
Đến hai giờ năm mươi phút, khi xuồng trôi dọc sông theo hướng tây bắc,
anh bảo Ken O’Hara nổ máy.
O’Hara mở van thông gió ở bình xăng phía bên trái xuồng, điều chỉnh dây
le, bơm hơi đầy bình cao su hình tròn, và giật mạnh dây kéo bánh đà. Máy
nổ ngay lập tức. Anh đưa máy về không tải, sau đó tiếp tục cho nổ máy thứ
hai. Anh gài số cả hai máy và chiếc xuồng vọt đi.
Trời trong xanh. Ánh trăng sáng phản chiếu trên mặt nước, nên việc lái
xuồng trên dòng sông khúc khuỷu tương đối dễ dàng. Fernandez hỏi: “Anh
đã quyết định tới chỗ máy bay đỗ chưa?”.
Partridge cân nhắc, hình dung ra tấm bản đồ tỷ lệ lớn của Fernandez mà
cho tới lúc này, anh hầu như đã thuộc lầu.
Trước hết, việc chọn rút theo đường sông không cho phép anh tới được