mặt giấy”, rồi tự nhủ “giá có thể khiến cho những hình ảnh tự nhiên này tự
để lại dấu ấn của chúng một cách bền vững”. Fox Tabot đã coi máy ảnh là
một hình thức ghi chép mà sức quyến rũ của nó chính là ở bản chất vô nhân
xưng – bởi lẽ nó ghi chép một hình ảnh “tự nhiên”, nghĩa là, một hình ảnh
ra đời “chỉ nhờ tác động của Ánh sáng mà thôi, không có bất kỳ một trợ
giúp nào của cây bút chì trong tay người nghệ sỹ.”
Nhà nhiếp ảnh được cho là một người quan sát sắc sảo nhưng không can
thiệp – một thư lại chứ không phải một nhà thơ. Nhưng khi người ta nhanh
chóng nhận ra rằng cùng chụp một thứ mà mỗi người ra một ảnh khác
nhau, thì cái giả định về sự vô nhân xưng và khách quan của ảnh chụp đã
phải nhường chỗ cho một sự thật rằng ảnh chụp không những là bằng
chứng của cái gì đó có ở ngoài kia, mà còn là của cái mà người chụp ảnh
nhìn thấy, không phải chỉ là ghi chép thế giới, mà còn đánh giá nó.
(1)
Ngày
càng rõ là nhìn không phải là một hành vi đơn giản, một chiều (được máy
ảnh giúp ghi lại), mà là có một lối “nhìn nhiếp ảnh”, vừa là một lối nhìn
mới cho mọi người, vừa là một hành vi cho họ thực hiện.
(1)
Quan niệm coi nhiếp ảnh là cái nhìn vô nhân xưng vẫn tiếp tục có nhiều
người tin theo. Trong số các nhà Siêu thực, nhiếp ảnh được coi là có chất
giải phóng đến mức nó vượt quá cả diễn đạt cá nhân thông thường: Breton
bắt đầu bài tiểu luận năm 1920 về Max Ernst bằng cách gọi lối viết tự động
là “một nhiếp ảnh đích thực của tư duy”, máy ảnh được coi là “một công
cụ mù lòa” và uy thế của nó trong việc “sao chép vẻ bề ngoài” đã “giáng
một đòn chí tử xuống các phương thức diễn đạt cũ, trong hội họa cũng như
trong thi ca.” Ở trường phái mỹ học trái ngược, các nhà lý thuyết Bauhaus
có một quan điểm không phải là không tương tự, coi nhiếp ảnh như một
ngành thiết kế, giống như kiến trúc – sáng tạo nhưng vô nhân xưng, không
bị gánh nặng của những phù phiếm như bề mặt và biểu hiện cá tính trong
hội họa. Trong sách Hội họa, Nhiếp ảnh, Điện ảnh (Painting, Photography,
Film – 1925), tác giả Moholy-Nagy ca ngợi máy ảnh vì đã áp đặt được
“nền tảng vệ sinh của quang học” dẫn đến “xóa bỏ cái mô hình liên hệ