Máy ảnh có thể phúc hậu, và nó cũng lành nghề làm ác. Nhưng cái ác của
nó chỉ sản sinh ra một loại vẻ đẹp khác, phù hợp với sở thích siêu thực vẫn
cai trị thị hiếu nhiếp ảnh. Cho nên, trong khi nhiếp ảnh thời trang dựa trên
một thực tế rằng sự vật vào ảnh có thể đẹp hơn ngoài đời, ta cũng không
ngạc nhiên khi một số nhà nhiếp ảnh phục vụ thời trang lại bị cuốn hút vào
những thứ không ăn ảnh tí nào. Có một quan hệ bổ sung hoàn hảo giữa ảnh
thời trang của Avedon, là ảnh nịnh, và những ảnh khác được mệnh danh là
của Kẻ Không Chịu Nịnh của ông – ví dụ như những chân dung không
thương tiếc mà vẫn tao nhã của Avedon chụp người cha đang hấp hối năm
1972. Chức năng truyền thống của hội họa chân dung, làm đẹp hoặc lý
tưởng hóa người mẫu, vẫn là mục đích của nhiếp ảnh thường ngày và nhiếp
ảnh thương mại, nhưng nó đã thành rất hạn chế trong nhiếp ảnh được coi là
nghệ thuật. Nói chung, vinh dự đã chỉ còn thuộc về những người trung
thực.
(1)
(1)
Nguyên văn: Generally speaking, honors have gone to the Cordelias
(ND).
Như một phương tiện chuyển tải cái phản ứng chống lại cái đẹp đã thành
công thức, nhiếp ảnh đã giúp khai triển rộng rãi quan niệm thẩm mỹ của
chúng ta. Nhiều lúc cái phản ứng ấy là nhân danh sự thật. Nhiều lúc khác
nó lại nhân danh sành điệu hoặc những dối trá xinh đẹp hơn: vì thế mà
nhiếp ảnh thời trang mới xây dựng được, trong hơn chục năm vừa rồi, cả
một kho tiết mục dữ dằn cho thấy cái ảnh hưởng không thể nhầm lẫn được
của chủ nghĩa Siêu thực. (“Cái đẹp sẽ phải gây chấn động,” Breton đã viết
thế, “còn không thì chả phải là đẹp.”) Ngay cả nhiếp ảnh thời sự hăng hái
nhất cũng bị áp lực phải thỏa mãn đồng thời hai loại nhu cầu, một có xuất
phát từ lối nhìn phần lớn là siêu thực của chúng ta đối với mọi loại ảnh
chụp, và loại nữa nảy sinh từ xác tín của chúng ta rằng một số ảnh chụp là
những thông tin đích thực và quan trọng về thế giới. Những ảnh do W.
Eugene Smith chụp trong những năm 1960 ở làng chài Minamata tại Nhật
Bản, nơi hầu hết cư dân đều bị dị tật và chết dần chết mòn do nhiễm độc