trong. Chúng có chức năng mở khóa tự động, tuy nhiên, chỉ khi có cháy
lớn. Đó là trường hợp duy nhất.”
“Ai giữ những chiếc chìa khóa này?” Servaz hỏi.
“Khoảng hai mươi người,” Xavier nói khi đi qua những cánh cửa kính.
“Các trưởng nhóm chăm sóc, ba giám sát viên ở tầng trệt, y tá trưởng, bếp
trưởng, và tôi… Nhưng trong mọi tình huống, nếu một trong những cánh
cửa đó bị mở, nó sẽ ngay lập tức kích hoạt chuông báo động trong phòng
điều khiển.”
“Chúng tôi cần danh sách những người giữ chìa khóa,” Ziegler nói.
“Có người trực thường xuyên trong phòng điều khiển không?” Servaz
hỏi.
“Có. Anh sẽ thấy, phòng ở ngay đây thôi.”
Họ vừa đi vào một tiền sảnh rộng lớn. Phía bên phải là một nơi giống
phòng chờ, với những chậu cây xanh và dãy ghế nhựa cố định vào một
thanh ngang. Đối diện là một phòng kính hình bán nguyệt, loại hay thấy ở
ngân hàng hoặc khu vực tiếp tân. Không có ai ở đó. Phía bên trái là một
không gian rộng lớn có những bức tường trắng bóng được trang hoàng
bằng tranh vẽ. Những khuôn mặt bị hành hạ nhe hàm răng sắc nhọn như
dao, những cơ thể méo mó, màu sắc chói mắt. Servaz đoán ra ngay, đây là
các tác phẩm nghệ thuật của người bệnh.
Anh chuyển hướng nhìn qua một cánh cửa thép có ô thoáng tròn nhỏ.
Phòng điều khiển. Xavier băng qua tiền sảnh để đi vào căn phòng đó. Anh
ta lấy ra một trong những chiếc chìa được móc vào sợi xích ở thắt lưng, tra
vào ổ và mở cánh cửa bọc thép. Có hai bảo vệ bên trong đang theo dõi mấy
chục màn hình. Họ mặc bộ áo liền quần màu cam, cúc chưa đóng kín lộ ra
áo thun trắng bên trong. Còng tay và những cái vòng xỏ đầy chìa khóa đeo
bên thắt lưng kêu xủng xẻng chói tai theo mỗi cử động. Có những hộp xịt
hơi cay treo trên tường nhưng không có súng.
Những chiếc màn hình chiếu hình ảnh hành lang dài, cầu thang, tiền
sảnh, và căng tin. Tất cả đều vắng hoe. Hai người đàn ông hờ hững nhìn
vào chúng với biểu cảm trống rỗng hệt như hai gã bảo vệ.