dựng vụt lên trời. Tất cả như chìm trong một vùng hỗn chiến của lửa, nước
chạy dọc hai triền sông.
Nhưng, như có phép thần, những lùm tre vẫn gan góc vươn ra che chở
những con tàu. Và dòng sông Gianh cũng như đất mẹ hai bờ hứng chịu các
luồng bom không chút chần chừ. Càng sục sạo săn tìm, lũ giặc trời càng
điên cuồng cắt bom hối hả...
Và, trong tiếng đạn nổ bom gào, những người lính thủy nghe rõ cả
tiếng trẻ con khóc thét, tiếng của người bị thương kêu rên, tiếng gia súc thét
rống, tiếng của những ngôi nhà bốc cháy nổ lốp đốp... Trái tim của họ đau
nhức nhối. Không thể được! Không thể để nhân dân vì ta mà mất mát đến
tính mạng và tài sản quá thể, con tàu ông xin lệnh nhổ neo, kéo cờ đỏ sao
vàng, mặt đối mặt với lũ giặc trời Mỹ, thu hút các luồng bom, để bảo vệ
nhân dân và hàng chục con tàu khác.
Phút chốc, con tàu chiến sơn màu nước biển, ở đâu đó lao vút ra giữa
dòng sông. Trên boong những người lính, không ai bảo ai, gọn ghẽ trong bộ
đồ lính thủy mới nhất của mình: chiếc áo trắng in những con sóng xanh,
chiếc mũ xanh có hai đuôi én tung bay, lanh lẹn và bình tĩnh ngồi vào vị trí
chiến đấu quen thuộc quanh cỗ pháo hai nòng vươn thẳng lên trời một cách
tự tin. Lũ máy bay giặc, như một bầy nhặng, bâu lấy con tàu của ông.
Ông nhớ là lúc đó, ông hoàn toàn không nghe một tiếng bom nào, chỉ
thấy loang loáng những bóng đen to nhỏ khác nhau lao thẳng từ trời cao vút
xuống hạm tàu. Con tàu khi nghiêng khi ngửa, khi chồm lên khi giật lùi,
vừa tránh bom đạn vãi tứ phía, vừa nhả đạn đánh trả quyết liệt. Nước sông
Gianh lúc đó cứ sôi lên sùng sục ở hai mạn tàu, và như nhuốm đỏ bởi máu
đồng đội.
Về chiều, con tàu như kiệt lực vì thương tích đầy mình mẩy và vì
những hòm đạn từ đất liền chuyển ra trên những con thuyền nhỏ nhoi của
các cô dân quân với búi tóc tròn và bộ đồ đen nước dính chặt thân người,