địch càn quét. Trong lúc chờ thuyền vượt sông pháo địch bắn như mưa vào
đội hình. Lúc ông đến cả hai vợ chồng đã chết, lật hai cái thân mình nát bấy
vì mảnh pháo của họ lên thằng bé con vẫn nằm im thin thít trong vòng tay
mẹ, nó giương đôi mắt tròn xoe lên nhìn thẳng vào ánh đèn pin như muốn
hỏi ai đến quấy rầy mình. Nhìn cảnh tượng ấy ông không cầm lòng được
bật khóc lên thành tiếng. Nhưng chỉ vài giây thôi, đúng chỉ vài giây thôi
ông lại phải lấy lại bộ mặt lạnh lùng để chỉ huy bộ đội vượt sông. Sang
được vùng tự do ông phải nhờ một người đặc biệt tin cậy đưa thằng bé về
tận tay cho bà Hạnh nuôi nấng và dặn bà phải coi nó như con đẻ. Bây giờ
nó cũng đã hơn mười tuổi và cũng chưa khi nào ông bà cho nó biết về gốc
gác của mình. Với đứa con nuôi này ông bà dành cho nó một tình thương
đặc biệt. Tuy vậy, cũng như chị em nó, chẳng khi nào ông ngồi nói chuyện
được với nó quá mười phút.
Nghĩ lan man mãi ông mới rút một tờ giấy mới để viết thư cho vợ:
“Bà và các con yêu quý!
Dạo này tôi vẫn khỏe nhưng công việc bận quá thành ra ít về nhà. Tuy
nhiên tôi sẽ cố gắng thu xếp để có mặt hôm ăn hỏi con Hường. Theo tôi nếu
nhà trai có sang bàn bạc trước mình cũng không nên đòi hỏi lễ lạt gì. Cả lễ
cưới sau này của các con cũng vậy, chỉ nên làm tiết kiệm và đơn giản thôi,
đang chiến tranh mà. Tôi đã để dành được mấy tút thuốc tiêu chuẩn rồi,
hôm ấy chỉ mua thêm một ít bánh kẹo nữa là đủ. Chúc bà và các con luôn
mạnh khỏe, các con chăm ngoan, học giỏi. Đào”.
Rút ngăn kéo bàn lấy cái phong bì mới đã dán sẵn tem ông đề tên vợ và
lồng lá thư vào. Nghĩ thế nào ông lại rút ra viết thêm mấy dòng:
“TB: Hôm người ta sang ăn hỏi bà cho mời các bác, các chú hai họ đến
cho đông đủ. Tiết kiệm nhưng không được để lúi xùi quá”.
Dán mép phong bì xong ông mới rời bàn làm việc vươn vai cho dãn xương
cốt rồi lên giường nằm. Chỉ một lát sau ông đã chìm vào giấc ngủ.