Biết bà con đang khó khăn nên đoàn trưởng Lãm đã chỉ thị cho bộ phận hậu
cần nắm cho mỗi người một nắm cơm. Nhưng khi đưa cơm ra thì Hồ Măng
một mực từ chối:
- Mình không lấy cơm của bộ đội đâu! Bọn mình đã có sắn rồi.
Mấy anh em phải xúm lại nói mãi Hồ Măng mới chịu nhận túi cơm đem
chia cho mọi người.
Hai bộ bình điện đã được bộ đội tháo ra để sẵn bên bờ sông. Vĩnh đứng ra
hướng dẫn nhóm du kích cách bảo quản và di chuyển an toàn bình điện.
Anh cũng cử thêm một người đi cùng đoàn để xử trí các tình huống xảy ra.
Bốn chiếc bình điện được đưa xuống con thuyền độc mộc để vượt sông.
Sang bờ bên kia chúng sẽ được xỏ vào cây đòn mà bà con gọi là cây xà-
roong để hai người khiêng. Nhìn đoàn người đang xúm lại khiêng bình điện
xuống thuyền Vĩnh cứ thấy lo lắng, không hiểu những con người gày gò,
đen đúa kia sẽ làm như thế nào để chuyển những cái bình điện sáu mươi tư
ki- lô- gam kia đi và về hơn ba chục ki- lô- mét trong ngày.
Suốt ngày hôm ấy Vĩnh cứ lo ngay ngáy, thỉnh thoảng anh lại ra bờ sông
ngóng về phía con đường mòn bên kia. Anh chỉ thở phào nhẹ nhõm lúc
chiều muộn khi đoàn người đen đúa xuất hiện phía bên kia sông. Từ xa anh
đã nhận được cái dáng cao lòng khòng của Hồ Măng, trên vai là cái đòn hai
đầu toòng teng hai mảnh xích. Đón hai bộ bình điện mới nạp và bốn mươi
hai miếng xích từ tay những người du kích anh thấy mắt mình cay cay. Hồ
Măng thì vẫn vô tư cười hở hàm răng cửa trống lổng:
- Cái gì của bộ đội xe tăng cũng nặng mà cứng hung. Bọn mình định gùi
mấy cái mảnh xích này mà không được, đau lưng lắm. Phải chặt tre làm xà-
roong để gánh đó. Thế mà đi đường cũng gãy mất ba cây xà- roong đó.
Nắm chặt hai bàn tay người xã đội trưởng Vĩnh chỉ biết lặp đi lặp lại:
- Cảm ơn Hồ Măng! Cảm ơn đồng bào nhiều lắm!