Không nghi ngờ rằng toàn cầu hóa đã đem lại nhiều lợi ích đáng kể cho
người tiêu dùng Mỹ. Nó khiến giá các loại hàng hóa từng được coi là hàng
xa xỉ giảm xuống, từ ti vi màn hình rộng đến đào tươi mùa đông, và nó làm
tăng sức mua của những người Mỹ thu nhập thấp. Nó giúp kiểm soát lạm
phát, tăng cao lợi nhuận cho hàng triệu người Mỹ đầu tư vào thị trường
chứng khoán, đem lại thị trường mới cho hàng hóa và dịch vụ Mỹ, và cho
phép những quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ giảm nghèo đói một cách
đáng kể, nhờ đó trong dài hạn thế giới sẽ ổn định hơn.
Nhưng cũng không thể phủ nhân toàn cầu hóa làm hàng triệu người Mỹ
bình thường rơi vào tình thế bất ổn về kinh tế. Để duy trì tính cạnh tranh và
đảm bảo các nhà đầu tư được hài lòng trên một thị trường toàn cầu, các
công ty Mỹ đã tiến hành tự động hóa, giảm quy mô, thuê gia công và
chuyển nhà máy ra nước ngoài. Họ không hề tăng lương cho người lao
động và thay chương trình bảo hiểm sức khỏe và hưu trí cố định bằng
chương trình 401(k)
[136]
và Quỹ tiết kiệm y tế
[137]
qua đó người công
nhân phải gánh chịu nhiều chi phí và rủi ro hơn.
Kết quả là nổi lên rõ nét nền kinh tế kiểu người-thắng-được-tất-cả. Nước
nổi nhưng không phải thuyền nào cũng nổi được. Trong thập kỷ vừa qua,
chúng ta đã chứng kiến kinh tế phát triển rất mạmh nhưng lượng việc làm
tăng thêm rất ít: năng suất lao động tăng vọt nhưng mức lương thì đứng
nguyên; lợi nhuận các công ty rất lớn nhưng phần người lao động được
hưởng lợi từ lợi nhuận đó lại giảm. Đối với những người có trình độ và
năng lực đặc biệt như Larry Page và Sergey Brin, và những lao động có tri
thức như kỹ sư, luật sư, nhà tư vấn và nhà tiếp thị - những người có điều
kiện làm việc - thì một thị trường toàn cầu hóa đem lai lợi ích tiềm năng lớn
chưa từng có. Nhưng với những người như công nhân công ty Maytag,
công việc của họ có thể thay bằng tự động hóa, số hóa hoặc bị chuyển sang
những nước có mức lương thấp hơn, thì tác động của toàn cầu hóa có thể sẽ
rất tồi tệ - tương lai là công việc lương thấp với phúc lợi ít ỏi, có nguy cơ