trí treo trên tường, và không có ai xung quanh. “Mời ông vào đây", một
giọng nữ vang lên, và tôi rẽ vào góc, nhìn thấy chính “Nhà tiên tri xứ
Omaha"
[165]
đang thủ thỉ gì đó với con gái ông, Susie và nữ trợ lý, Debbie,
bộ com lê của ông hơi nhàu, còn cặp lông mày rậm thì hơi cao so với cặp
kính.
Buffett mời tôi tới Omaha để thảo luận chính sách thuế. Cụ thể hơn, ông
muốn biết tại sao Washington vẫn tiếp tục giảm thuế cho những người giàu
như ông trong khi đất nước đang nợ chồng chất.
“Hôm trước tôi đã làm thử vài phép tính", ông nói khi chúng tôi ngồi
trong phòng làm việc của ông. "Mặc dù tôi chưa bao giờ sử dụng các biện
pháp tránh thuế hay có nhân viên tư vấn giảm thuế, và sau khi tính toán
bảng lương thuế phải trả thì thuế suất của tôi năm nay còn thấp hơn cả thuế
suất của cô lễ tân ở công ty tôi. Thực tế, tôi dám chắc là thuế suất của tôi
thấp hơn mức thuế suất của một người Mỹ trung bình. Nếu Tổng thống còn
tiếp tục chính sách này thì số thuế tôi phải nộp sẽ còn giảm nữa".
Thuế suất thấp của Buffett là hậu quả của thực tế rằng, như đa phần
những người giàu khác, phần lớn nguồn thu nhập của ông là từ cổ tức và giá
trị vốn tăng lên, thu nhập từ đầu tư chỉ bị đánh thuế ở mức 15% từ năm
2003. Còn lương của cô lễ tân thì phải chịu thuế suất gấp đôi nếu tính cả
thuế thu nhập liên bang
[166]
. Theo quan điểm của Buffett thì sự chênh lệch
này cực kỳ vô lý.
"Thị trường tự do là cơ chế tốt nhất từng tồn tại để phân bổ nguồn lực
sao cho hiệu quả và đạt năng suất cao nhất", ông nói. "Chính phủ không thể
làm tốt việc này. Nhưng thị trường thì lại không thể đảm bảo của cải được
phân chia một cách công bằng hay hợp lý. Một phần trong số của cải đó
phải được đầu tư lại vào giáo dục để thế hệ tiếp theo có cơ hội công bằng,
và còn phải bảo trì cơ sở hạ tầng, cung cấp biện pháp bảo vệ dưới hình thức
nào đó cho những người gặp thất bại trong nền kinh tế thị trường. Và hiển