1
ông cho rằng tôn giáo chỉ là mê tín, giống như vật thờ linh tinh của các
thầy lang phù thủy mà ông thấy hồi trẻ ở những ngôi làng Kenya.
Mẹ tôi tái hôn với một người Indonesia cũng có khuynh hướng hoài nghi
như bà, một người không thấy tôn giáo có lợi ích gì trong cuộc sống hàng
ngày, một người lớn lên ở một quốc gia mà tín ngưỡng Hồi giáo dễ dàng
trộn lẫn với di sản Ấn Độ giáo, Phật giáo và các tôn giáo thờ linh vật cổ
xưa. Trong năm năm sống với cha dượng ở Indonesia, đầu tiên tôi được đi
học ở trường Công giáo, sau đó là trường mà học sinh chủ yếu là Hồi giáo;
và ở cả hai trường, mẹ tôi đều không lo chuyện tôi sẽ học sách giáo lý hay
suy nghĩ về ý nghĩa của lời nhắc nhở cầu nguyện buổi tối của giáo sỹ Hồi
giáo bằng chuyện liệu tôi đã học thuộc bảng cửu chương hay chưa.
Dù có tính phi tôn giáo công khai, nhưng về nhiều mặt, mẹ tôi chính là
người có nhận thức tinh thần cao nhất mà tôi biết. Bà có bản năng không
thay đổi về lòng tốt, khoan dung và tình yêu thương, và dành phần lớn cuộc
đời hành động theo bản năng đó, đôi khi còn tự làm tổn thương mình.
Không cần sự hỗ trợ của những lời giáo lý hay sức mạnh bên ngoài, mẹ tôi
cố gắng hết sức truyền cho tôi những giá trị mà rất nhiều người Mỹ được
học ở nhà thờ vào Chủ nhật: trung thực, cảm thông, kỷ luật, không sớm hài
lòng, làm việc chăm chỉ. Bà thù ghét sự nghèo đói và bất công, và khinh
thường những người bàng quan với hai vấn đề này.
Và hơn hết, mẹ tôi có bản năng nhận biết những điều kỳ diệu, một thứ
tình cảm tôn kính cuộc sống và bản chất kỳ diệu, ngắn ngủi của nó, bản
năng đó có thể được mô tả chính xác là sùng đạo. Suốt cả ngày bà có thể
ngắm một bức tranh, đọc một câu thơ, hay nghe một đoạn nhạc, và tôi thấy
lệ dâng đầy trong mắt bà. Khi tôi lớn hơn, đôi khi bà đánh thức tôi dậy