sẽ được dùng để dẫn đường cho chính sách công? Chúng ta nên theo
Leviticus trong đó nói rằng chế độ nô lệ là tốt và ăn các loại thủy sản không
xương sống là hành động đáng ghê sợ? Thế còn Deuteronomy
[197]
, trong
đó nói rằng hãy ném đá đứa con của mình nếu nó lạc mất niềm tin? Hay
chúng ta chỉ nên bám lấy đoạn Thuyết pháp trên núi
[198]
- một đoạn kinh
cực đoan đến nỗi tôi nghĩ là Bộ Quốc phòng của chúng ta chưa chắc đã tồn
tại được trước thực tế áp dụng đoạn kinh này.
Điều này dẫn chúng ta tới một điểm nữa - đó là các quan điểm tôn giáo
nên truyền đạt thông tin cho các cuộc tranh luận công khai và định hướng
cho các quan chức được bầu theo cách nào. Chắc chắn là những người
không theo đạo đã sai lầm khi yêu cầu các tín đồ phải đặt tín ngưỡng của họ
ngoài cửa trước khi bước vào nơi công cộng:
Frederick Douglass, Abraham Lincoln, William Jennings Bryan,
Dorothy Day
[199]
, Martin Luther Keng Jr. - thực tế là đa số những nhà cải
cách vĩ đại nhất lịch sử nước Mỹ - không chỉ có động cơ là niềm tin mà
còn nhiều lần sử dụng ngôn ngữ tôn giáo để giải thích quan điểm của họ.
Nói mọi người không nên đưa "đạo đức cá nhân" vào các cuộc tranh luận
chính sách công khai thì nghe rất ngớ ngẩn; bản thân luật pháp của chúng ta
đã được định nghĩa là bộ quy tắc về đạo đức, và phần lớn luật được dựa trên
các truyền thống của Do Thái - Thiên chúa giáo
[200]
.
Nền dân chủ thảo luận, đa nguyên của chúng ta đòi hỏi những người
hành động vì động cơ tín ngưỡng phải trình bày mối lo ngại của họ dưới
hình thức những giá trị phổ biến chứ không phải giá trị đặc trưng của tôn
giáo. Tức là những đề xuất của họ phải có lý lẽ và phải theo lẽ phải. Nếu tôi
phản đối nạo phá thai vì lý do tín ngưỡng và tìm cách thông qua một đạo
luật cấm nạo phá thai thì tôi không thể chỉ đơn giản viện dẫn đến lời dạy
của nhà thờ hay ý muốn của Chúa và hy vọng lý do đó thuyết phục được
mọi người. Nếu tôi muốn người khác lắng nghe tôi, tôi phải giải thích tại