Một hôm, ở phòng họp Thượng viên tôi gặp một trong những đồng
nghiệp bên đảng Cộng hòa đã buộc tội tôi. Tôi giải thích với ông là dự luật
này thực sự sẽ bảo vệ công nhân Mỹ vì người sử dụng lao động sẽ không có
lý do gì thuê lao động nước ngoài nếu họ phải trả mức lương bằng lương
cho công nhân Mỹ. Người đồng nghiệp Cộng hòa, vốn luôn rất to tiếng khi
phản đối bất cứ dự luật nào hợp pháp hóa cho những người nhập cư không
giấy tờ, lắc đầu.
“Mấy người bạn chủ doanh nghiệp nhỏ của tôi vẫn sẽ thuê người nhập
cư thôi”, ông bảo, “Và điều sửa đổi của anh chỉ làm được mỗi một việc là
họ phải trả lương cao hơn cho mấy người đó”.
“Nhưng tại sao họ không thuê người Mỹ nếu lương là như nhau?” Tôi
hỏi ông.
Ông ta mỉm cười. “Phải chấp nhận sự thật thôi, Barack. Là vì người
Mexico sẵn lòng làm việc chăm chỉ hơn người Mỹ”.
Việc những người phản đối dự luật nhập cư chỉ có thể nói những câu đó
ở chỗ riêng tư trong khi trước công chúng thì làm ra vẻ như đứng lên phản
đối vì quyền lợi của công nhân Mỹ cho thấy mức độ nào đó thái độ hoài
nghi và đạo đức giả đã ngấm sâu vào cuộc tranh luận về nhập cư. Nhưng
khi cả xã hội đang trong tâm trạng bực bội, mối lo ngại ngày càng tăng cao
nhờ được Lou Dobbs
[232]
và các chương trình thảo luận trên đài phát thanh
trên cả nước nhắc nhở hàng ngày, tôi không thể nói là tôi ngạc nhiên vì dự
luật thỏa hiệp này lại bị sa lầy ở Hạ viện suốt từ khi được Thượng viện
thông qua.
Và nếu trung thực với chính mình thì tôi phải thừa nhận rằng tôi không
hoàn toàn miễn nhiễm với quan điểm coi trọng người bản địa. Khi nhìn thấy
quốc kỳ Mexiro trong những cuộc biểu tình ủng hộ người nhập cư, đôi khi
tôi thấy dậy lên cảm giác oán giận vì yêu nước. Khi tôi buộc phải nhờ đến