dàng hơn so với trẻ phải sống với gia đình có mẹ kế hoặc bố dượng hoặc
bạn gái/trai của cha mẹ chúng.
Với thực tế đó, cả chính sách khuyến khích kết hôn đối với những người
muốn kết hôn lẫn chính sách hạn chế sinh con ngoài ý muốn ngoài hôn
nhân đều là những mục tiêu nhạy cảm cần theo đuổi. Ví dụ: phần lớn mọi
người đồng ý rằng cả chương trinh phúc án liên bang lẫn các đạo luật thuế
đều không nên áp dụng chế tài phạt đối với những gia đình có kết hôn;
những cải cách phúc lợi có hiệu lực dưới thời Clinton cũng như những nội
dung của kế hoạch cắt giảm thuế của Bush dẫn tới giảm các chế tài đó được
cả hai dạng ủng hộ mạnh mẽ.
Với chính sách hạn chế mang thai ở tuổi vị thành niên cũng tương tự.
Mọi người đều cho rằng mang thai ở tuổi vị thành niên khiến cả mẹ và con
đều gặp rất nhiều rủi ro khác nhau. Từ năm 1990, tỷ lê mang thai ở tuổi vị
thành niên đã giảm 28%, một con số rất đáng mừng.
Nhưng các em vẫn chiếm khoảng một phần tư số người mẹ sinh con
ngoài giá thú, và những người mẹ vị thành niên này càng có khả năng sinh
thêm con ngoài giá thú về sau. Các chương trình dựa vào cộng đồng đã
chứng minh được tính hiệu quả trong việc giúp giảm tỷ lệ mang thai ngoài ý
muốn như khuyến khích hạn chế quan hệ tình dục hoặc tăng cường sử dụng
các biện pháp tránh thai nên được ủng hộ rộng rãi hơn.
Cuối cùng nghiên cứu sơ bộ cho thấy các hội thảo giáo dục về hôn nhân
có thể mang lại kết quả đáng kể trong việc giúp các cặp vợ chồng đã kết
hôn chung sống lâu dài hơn và khuyến khích các cặp chưa kết hôn có một
cam kết vững chắc hơn. Hẳn tất cả mọi người sẽ đồng ý rằng cần mở rộng
đối tượng tham gia sang các cặp có thu nhập thấp, có thể kết hợp với đào
tạo nghề và sắp xếp việc làm, dịch vụ y tế và các dịch vụ xã hội khác hiện
có.