Đôi khi tôi tưởng tượng công việc của tôi không khác mấy so với các
giáo sư lý thuyết khác cùng dạy trong trường – vì, tôi nghĩ cũng giống như
các giáo sư dạy Kinh thánh, tôi thấy sinh viên thường nghĩ răng họ đã biết
Hiến pháp trong khi chưa hề đọc nó. Các sinh viên thường quen với việc rút
ra vài cụm từ trích dẫn họ nghe được và ngay lập tức dùng mấy từ đó để
tranh luận, hoặc bỏ qua những đoạn văn mâu thuẫn với quan điểm của
chính họ.
Nhưng điều tôi đánh giá cao nhất khi dạy môn luật hiến pháp, và tôi
muốn sinh viên của tôi cũng đánh giá cao điều đó, là tại sao Hiến pháp vẫn
áp dụng được sau hai thế kỷ tồn tại. Có thể các sinh viên đã có tôi làm
người dẫn đường, nhưng họ không cần bất cử tài liệu trung gian nào khác,
vì không giống sách Timothy hay Luke (thuộc Tân ước), những văn bản lập
quốc - gồm Tuyên ngôn Độc lập, Luận cương về Chính quyền liên bang
[77]
, và Hiến pháp - cho thấy chúng thực sự là tác phẩm của con người. Tôi
nói với sinh viên rằng chúng ta có tài liệu ghi lại ý tưởng của những người
sáng lập, những tranh cãi đa âm mưu của họ. Nếu chúng ta không thể luôn
luôn thần thánh hóa những điều nằm trong trái tim những người sáng lập ra
đất nước thì ít nhất chúng ta cũng có thể đi xuyên qua tấm màn thời gian để
cảm nhận được lý tưởng cốt lõi đã thúc đẩy họ hành động.
Thế thì, chúng ta nên hiểu Hiến pháp như thế nào, và Hiến pháp nói gì
về những cuộc tranh luận hiện tại xung quanh tòa án? Trước hết, việc đọc
kỹ các văn bản lập quốc sẽ nhắc chúng ta nhớ rằng quan điểm của chúng ta
chịu ảnh hưởng của các văn bản đó biết bao nhiêu. Hãy lấy ý tưởng những
quyền không thể bị xâm phạm. Hơn hai trăm năm sau khi Tuyên ngôn Độc
lập được chấp bút và Đạo luật Nhân quyền
[78]
được thông qua, chúng ta
vẫn tiếp tục tranh cãi về ý nghĩa của việc "khám xét hợp lý", hay liệu Hiến
pháp sửa đổi lần thứ hai có cấm đưa ra quy định quản lý súng không, hay
việc xúc phạm quốc kỳ có được coi là cách thể hiện quan điểm cần được
bảo vệ không
[79]
. Chúng ta tranh cãi về việc những quyền cơ bản trong
thông luật - như quyền kết hôn hay quyền giữ toàn vẹn cơ thể - có được