Thời đó con người còn tin có phù thủy và sợ nó. Những lời gớm ghiếc của
bà già tác dộng vào tôi như một sự báo trước không hay ho gì. Tôi không
biết làm gì và cảm thấy hai đầu gối muốn sụm xuống.
Sau cùng tôi ngồi xuống và nhìn xuống thung lũng vào ngôi nhà họ
Shaws. Càng nhìn lâu tôi càng thấy xung quanh dễ chịu hơn. Khắp nơi trên
mặt đất ánh lên những bông hoa trắng của các bụi gai, không biết bao nhiêu
cừu đang chuyển động như những chấm trắng trên đồng cỏ. Một bầy quạ
khoang bay ở bên trên. Tất cả cái đó là dấu hiệu của mảnh đất phì nhiêu ở
một góc của thế giới. Chỉ có cảnh hoang tàn của ngôi nhà giữa phong cảnh
đẹp này làm tôi khó chịu.
Trong khi tôi ngồi đó, ở bên rừng thì những người nông dân từ cánh đồng
đi lên ngang qua nhưng tôi không còn dám chào họ nữa.
Cuối cùng mặt trời lặn hẳn và bây giờ tôi nhìn thấy trên bầu trời màu
vàng cột khói bay lên từ ống khói của ngôi nhà, mỏng manh như khói một
ngọn nến. Nhưng dẫu sao điều đó cũng có nghĩa là có lửa, có nhiệt, một bữa
ăn và một con người đang sống – con người đã châm lửa – đó là điều an ủi.
Tôi đứng lên và đi tiếp về phía ngôi nhà theo một con đường nhỏ rất khó
nhận ra. Con đường khó đi, nhưng không có đường nào khác.
Cuối cùng tôi đến chỗ hai cái cột đá, bên cạnh là một chòi bảo vệ, một cái
lều không mái, trên cửa có tấm huy hiệu. Chắc đây là cổng chính nhưng mới
xây xong một nửa. Thay vào cái cổng sắt thông thường, tôi chỉ nhìn thấy
một cánh cửa gỗ buộc lộn xộn bằng một sợi dây thừng. Cũng không có rào
chắn, không có lối vào, không có gì ngoài một lối mòn mà tôi vừa đi qua
nằm bên phải cột đá. Tôi tiếp tục đi về phía ngôi nhà.
Càng đến gần, ngôi nhà càng làm tôi hết hứng thú. Nó trông tựa đầu hồi
của một ngôi nhà không bao giờ xây xong cả, với bậc thềm, cầu thang và
những bức tường dở dang. Rất nhiều cửa sổ không có kính, những con dơi
bay ra, bay vào như chim cu bay bầy.
Trời đã rất tối khi tôi đến sát ngôi nhà. Qua ba cửa sổ đặt khá cao, rất hẹp
và có chấn song ở tầng dưới người ta có thể nhìn thấy một ngọn lửa cháy