bập bùng.
Chẳng lẽ đây là cái lâu đài mà tôi phải lặn lội từ rất xa mới tới được?
Chẳng lẽ tôi cần tìm trong những bức tường tang thương này những người
bạn mới, và sẽ tìm được hạnh phúc tương lai? Nếu là nhà cha mẹ tôi thì từ
xa một dặm người ta đã thấy ánh bếp lửa và ánh sáng của nến rồi, còn cửa
thì luôn luôn mở đón khách kể cả khi một người ăn xin tới.
Tôi tiếp tục lần mò thận trọng và lắng nghe căng thẳng trong bóng đêm.
Tôi nhận ra thỉnh thoáng có người nào đó ho khan, có tiếng bát đĩa lách
cách. Nhưng tôi không thấy tiếng ai nói cả. Không có cả tiếng chó sủa.
Tôi nhận ra trong bóng tối cửa ra vào bằng gỗ mộc và được đóng đinh
khắp nơi. Tôi ngần ngại giơ tay và gõ một lần duy nhất vào cánh cửa. Sau đó
tôi chờ. Trong nhà yên lặng như chết. Một phút trôi qua, không có động tĩnh
gì, chỉ có lũ dơi vỗ cánh trên đầu. Tôi lại gõ cửa và lắng nghe. Dần dần tai
tôi quen với yên lặng nên tôi nghe được tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ ở
trong nhà. Giây phút trôi qua. Nhưng người nào đó trước đây ở trong nhà
bây giờ câm lặng như hến, có lẽ anh ta còn nín thở nữa.
Tôi không biết có nên đi khỏi dây không nhưng sự giận dữ đã thắng và tôi
dùng nắm tay và chân đập vào cửa và gọi to tên ông Balfour.
Ngay khi tôi còn đang đập cửa thì nghe thấy ai đó ho ở trên lầu. Nhảy lùi
lại, tôi nhìn thấy trên cửa sổ tầng một, đầu của một người đàn ông với chiếc
khăn trùm lớn, bên cạnh đó là một họng súng chĩa vào tôi.
— Hãy coi chừng, súng đã nạp đạn đấy nhé – Một giọng hét lên ở phía
trên.
— Tôi mang đến một bức thư – Tôi nói – cho ông Ebenezer Balfour of
Shaws. Ông ấy có ở đây không?
— Thư của ai? – Người cầm súng hỏi.
— Điều đó không quan trọng – Tôi đáp lại, lúc đó tôi càng ngày càng cáu
giận.
— Được. Mày có thể để thư ở cạnh cửa và cút khỏi đây.