làm anh đặc biệt thích thú vì khi bắt cá tôi thường gặp may hơn anh. Anh
làm tôi đau nhiều hơn mức cần thiết một chút, thỉnh thoảng anh khiển trách
tôi rất nặng, chửi rất thô tục và dồn tôi vào thế bí làm tôi phát hoảng, sợ anh
sẽ đâm thanh gươm qua người tôi. Vâng, thỉnh thoảng tôi có ý muốn bỏ
cuộc nhưng đã kìm chế được và đã học được rất nhiều. Mặc dù chưa lần nào
tôi làm thầy dạy của mình hài lòng chút ít, không phải tôi không hài lòng với
mình.
Bạn đọc đừng nên nghĩ rằng chúng tôi đã quên mất mục đích chính của
mình là chạy trốn một cách an toàn.
Ngay buổi sáng đầu tiên Alan đã nói với tôi:
— Phải vài ngày nữa tụi Áo đỏ mới nghĩ ra là chúng phải lùng sục
Corrynakiegh. Từ đây chúng ta phải tìm cách báo tin cho James để ông ta
kiếm tiền cho chúng ta.
— Và chúng ta báo tin bằng cách nào được? – Tôi hỏi – Chúng ta ngồi ở
đây trong một ốc đảo và không dám rời nó. Nếu anh không định dùng chim
rừng làm người đưa tin thì tôi không hiểu chúng ta có thể làm gì hơn.
— Ồ, – Alan kêu lên – cậu không phải là loại sáng tạo lắm. David ạ.
Sau khi nói vậy anh nín lặng, nhìn trân trân vào ngọn lửa leo lét và suy
nghĩ căng thẳng. Đột nhiên anh nhặt vài nhánh củi, xếp thành một cái thập
tự, hơ đen bốn đầu trong ngọn lửa sau đó nhìn tôi, hơi lúng túng một chút:
— Cậu có thể cho mình mượn cái khuy bạc được không? – Anh đề nghị –
Mượn lại vật đã tặng thực ra hơi không bình thường nhưng tôi không muốn
cắt một chiếc thứ hai.
Tôi đưa cho anh chiếc khuy, anh buộc chặt nó vào một miếng vải vừa cất
từ áo măng tô dùng để buộc cái thập tự. Sau khi nhét thêm vào đó một nhánh
dương và nhánh tùng, anh hài lòng ngắm nghía tác phẩm của mình.
— Bây giờ, cậu hãy nghe đây! – Anh nói – Cạnh đây có một nơi mà trong
tiếng Anh ta có thể gọi là làng nhỏ, có tên là Coalisnacoan. Rất nhiều bạn bè
tôi, những người tôi có thể tin cậy, sống ở đó, nhưng cũng có một số tôi