vừa mỏi chúng tôi tới một làng nhỏ sát biển từ đó có thể nhìn thấy vịnh
Hope và thành phố Queensferry . Từ ống khói ở hai nơi, khói đang bốc lên,
cũng như ở các căn lều ngoại vi. Trên đồng mùa gặt đang đến. Có hai con
tầu bỏ neo, trên vịnh Hope thuyền bè nhộn nhịp.
Tất cả là một phong cảnh dễ chịu. Tôi nhìn không chán mắt những thung
lũng trồng trọt xanh tốt, những con người chăm chỉ trên đồng và dưới mặt
nước.
Nhưng trước hết, ngay phía bờ nam đối diện là nhà ông Rankeillor một sự
giàu sang cho tôi nằm trong đó. Nhưng tôi lại ngồi đây, ở bờ dốc, hoàn toàn
đói rách, toàn bộ tài sản còn lại ba đồng xu bạc trong túi, đầu tôi được đặt
giá cao và người dẫn đường độc nhất của tôi thì tự do như chim, là một
người ngoài vòng pháp luật.
— Ồ, Alan, hãy tưởng tượng xem, ở phía bên kia là tất cả những gì trái
tim tôi tôn sùng. Chim bay qua vịnh, thuyền bè đi lại. Nếu ai có hứng, cứ
việc qua bên kia. Chỉ có tôi là không, có đáng khóc không?
Trong làng Limekiln, chúng tôi đi tới một quán trọ nhỏ mà ta chỉ nhận ra
qua dòng chữ trên cánh cửa. Từ tay một cô gái trẻ, xinh xắn – chắc là người
phục vụ – chúng tôi mua bánh mì và pho-mát. Chúng tôi cho hai thức này
vào túi xách để ăn ở bìa rừng cách đây chừng một dặm.
Trong lúc đi dọc bờ biển, tôi thở dài liên tục, nhìn một cách thèm thồng
sang bờ vịnh bên kia. Tôi không thấy là Alan đi bên cạnh đang suy nghĩ
căng thẳng. Cuối cùng anh đứng lại:
— Cậu có thấy cô bé không? – Anh hỏi, tay đập vào túi xách – Cô bé bán
cho ta những thứ này ấy.
— Tất nhiên, – Tôi đáp – khá đẹp đấy.
— Cậu nghĩ vậy à, David, thật tuyệt vời!
— Vì sao anh sung sướng vậy, cô gái giúp được gì cho ta?
— Cậu biết không, – Alan nói và nhìn tôi láu lỉnh – Tôi nghĩ là cô bé có
thể kiếm giúp ta chiếc thuyền.