lòng với một số tiền nào đó. Tôi nói với ông biện hộ là tôi sẵn sàng nhượng
bộ và tất nhiên tôi không thích đưa một xì-căng-đan của gia đình ra công
chúng. Và tôi suy nghĩ về mặt đại thể xem kế hoạch sắp tới như thế nào.
— Tôi thấy điều quan trọng nhất là buộc tội ông ta đã bắt cóc tôi. – Tôi
nói.
— Chắc chắn như vậy nhưng nếu được thì không nên cần tòa án. Thế thì
chắc chắn chúng ta sẽ tìm được một thủy thủ trên tàu Covenant sẵn sàng
tuyên thệ rằng người ta đã dùng vũ lực giữ anh ở trên tàu như thế nào.
Nhưng ở ghế nhân chứng, chúng ta không còn tác động gì được vào lời khai
và thế nào cũng có vài lời về ngài Thomson mà anh không muốn nói lên ở
đó.
— Vâng, thưa Ngài. Tôi nghĩ câu chuyện có thể như vầy…
Và tôi trình bày cho Ngài Rankeillor kế hoạch của mình.
— Điều này làm tôi thấy cần phải… làm quen với cái ông Thomson này –
Ông Rankeillor nói.
— Tất nhiên điều đó tôi không từ chối.
— Ồ, trời ạ – Ông kêu lên và xoa vào thái dương – Ô, trời ơi, tôi sợ là
như thế kế hoạch của anh không thực hiện được. Tôi không muốn nói điều
gì phản lại bạn anh. Tôi không thấy có gì bất lợi về anh ta nếu tôi biết ít
nhiều, anh hãy nhớ là nghĩa vụ của tôi là phải ra lệnh bắt anh ta, tôi muốn là
để anh quyết định tôi có nên gặp anh ta không. Anh ta có thể có nhiều điều
bí ẩn, có lẽ anh ta không nói thật với anh tất cả, có thể tên anh ta chẳng phải
là Thomson đâu, vì những người loại này đọc bất cứ một cái tên nào bên
đường như người khác đọc tên một loài cỏ vậy.
— Điều này ngài sẽ tự quyết định lấy, thưa ngài – Tôi nói.
Nhưng chắc kế hoạch của tôi làm ông thích vì ông ngồi suy tư cho đến tận
lúc chúng tôi được mời đi ăn trưa có bà Rankaeillor cùng dự. Khi bà vừa lui
vào để hai chúng tôi uống rượu một mình, ông biện hộ lại nói ngay về đề
nghị của tôi: Tôi và anh bạn Thomson của tôi sẽ gặp nhau khi nào, ở đâu?