như thể đây là một cái chợ hàng rong, những người áo ngoài, áo trong,
những thứ đồ len, tất cả vắt trên vai và trên hai cánh tay giơ ra để rao hàng
của họ. Cái lối buôn bán này làm cho Trung úy Zotov bối rối không cùng:
buôn bán như vậy là không được phép, nhưng cũng lại chẳng làm thế nào
cấm họ được, bởi vì các người di cư đều không được cấp phát gì cả.
Mưa chỉ không xua đuổi được những người có công việc. Bên ngoài
cửa sổ, Trung úy Zotov có thể nhìn thấy người lính gác đứng ở sân ga gần
các kiện hàng phủ vải dầu. Nước mưa chẩy vào người anh lính, nhưng anh
ta vẫn đứng đấy chẳng buồn rũ nước đi. Trên đường số 3 đầu tầu đang nối
toa kéo các toa chở nước, người bẻ ghi khoác áo tơi mưa vải dầu đầu đội
mũ quả dưa sụp xuống, tay gã cầm cờ phất phất ra hiệu. Rồi đến lượt bộ
mặt xủn xoẳn u tối của người gác thắng đi dọc đoàn tầu trên đường số 2,
vừa đi vừa cúi xuống xem xét dưới gầm mỗi toa tầu. Ngoài ra không còn gì
ngoài mưa xiên xiên, ray rứt. Trong cái lạnh, gió dai dẳng xiết xuống nóc
và vách các toa chở hàng hóa, thổi thẳng vào các đầu máy, rít lên và xoắn
vặn các lớp sắt bọc ngoài bị rách xoạc của nhiều toa tầu (các toa tầu này bị
hư hại nhiều chỗ vì một cuộc tấn công của máy bay, nhưng bộ phận máy
móc không bị hỏng nên bây giờ các toa này được kéo ra dùng), gió trút
xuống bốn khẩu đại bác không có đồ che đậy đứng trơ trơ trên sân ga, và
hòa vào với cái tối đang phủ xuống, để kéo thành một lớp màn xám phía
trên đĩa điện báo màu xanh, và trên những tàn lửa thỉnh thoảng vọt lên từ
ống khói lò ở các toa chở súc vật đầy người. Sân ga số 1 tráng nhựa đã
ngập nước sủi bong bóng, nước đọng chưa kịp rút đi; nước làm cho các
đường rầy loáng loáng trong bóng tối; và những vũng dầu không thấm đi
được rung rinh trong bóng tối mầu nâu của bờ thiết lộ.
Cả vùng không một âm thanh, trừ những đợt rung nhẹ của mặt đất và
tiếng kèn như thiếu hơi của người bẻ ghi, vì còi tầu đã bị cấm kéo từ lúc
chiến tranh bùng nổ.
Chỉ có tiếng nước mưa rít trong ống mái bể.