khủng. Lần nào cũng thế, hễ nhận được quà là tôi lại đâm buồn bã.
D ọn dẹp xong các thứ, tôi bắt đầu kiểm lại tiền. Tôi chẳng nhớ trong túi
còn được bao nhiêu, nhưng đại để cũng chẳng có gì đáng lo. Mới tuần
trước, bà tôi vừa gởi cho một tấm ngân phiếu. Tôi may mắn có được một
người bà hào phóng, chẳng biết tiếc tiền là gì. Bà tôi, nói của đáng tội,
chẳng còn được minh mẫn như ai. Bà đã ngót trăm tuổi nên năm nào cũng
đãng trí bốn, năm lần gửi tiền mừng sinh nhật đứa cháu. Nhưng tuy sẵn
tiền, tôi vẫn tự dặn mình đừng vung tay quá trán. Tôi chạy lại cuối dãy hành
lang, dựng thằng Frederick Woodroff dậy, đòi lại chiếc máy chữ cho nó mua
chịu, hỏi xem nó định trả bao nhiêu. Nó là con nhà giàu. Nó bảo: tao không
biết. Rồi nói nó cóđịnh mua đâu mà hỏi.Nhưng rồi cũng bằng lòng trả tiền.
Chiếc máy trên dưới chín chục đôla. Thế mà nó chỉ trả có hai chục, lại còn
cáu tôi đã làm nó mất giấc.
Khi đã xong xuôi mọi thứ, tôi liền xách hai chiếc vali với mọi thứ cần
mang về. Lúc đến gần đầu cầu thang, tôi dừng lại; ngoái nhìn lần chót dãy
hành lang. Tuồng như tôi ứa nước mắt, nức nở khóc. Vì sao, tôi cũng chẳng
biết nữa. Nhưng rồi vẫn chụp chiếc mũđi săn lên đầu, lưỡi trai quay ngược
ra sau, rồi lấy hết sức bình sinh gào to:
- Về nhé, lũ mất dạy!
Tôi dám c ả quyết đã dựng tất cả lũ quái thai ấy dậy! Rồi ù té chạy
xuống cầu thang. Một thằng ăn hại nào đó đã vất bừa mấy cái vỏ hồđào trên
bậc thang, tôi suýt ngã gãy cổ.
8
Khuya kho ắt thế này, đừng hòng gọi nổi taxi, nên tôi đành cuốc bộ.
Nhà ga cách đấy cũng gần, nhưng trời lạnh kinh khủng. Đã thế, đường xá
lại đày những tuyết, hai chiếc vali chốc chốc lại đập vào ống chân, điếng
người. Nhưng được cái không khí đỡ ngột ngạt hơn. Chỉ khổ một nỗi là mũi
và môi trên tôi rát kinh người
- nó đã đạp nát bởi quả thụi của thằng Stradlater chó đẻ. Nó nện thẳng môi
tôi vào
m ấy chiếc răng cửa, nên bây giừo vẫn còn đau. Tuy thế, hai tai vẫn ấm.
Bởi chiếc mũđi săn có dính một cặp tai che khá lứon, và tôi đã hạ cả hai tai