lái, cái khoảng mênh mông màu xám đầy bão tố ấy, tôi lại bị cái môi trường
chứa chất sự phẫn nộ ấy chế ngự, làm tôi không nghe thấy tiếng kêu ù ù của
động cơ trong vài giây. Phải có một sức mạnh của ý chí mới đưa tôi ra khỏi
cảm giác đó để quay về cái thế giới bé nhỏ thân thuộc là buồng lái với
những chiếc kim của các thiết bị dẫn đường.
Và lần này nữa, thoạt đầu tôi cảm thấy như động cơ không kêu giòn giã
như trước, những chiếc kim thì di chuyển một cách đáng sợ tới những giới
hạn hiểm nghèo, phải có một khoảng thời gian làm cho đầu óc trở lại bình
thường và tin vào tình trạng tột cùng sức mạnh của máy bay.
Bờ biển đã lùi xa về phía sau. Muốn tìm ra đường bay của máy bay địch
mà ta đã phán đoán, chúng tôi bắt đầu lang thang trên biển, luôn thay đổi
hướng bay.
Và bất thần... Máy bay địch bay ở phía tay trái, cao hơn chúng tôi một
chút, gần như sát trần mây.
Đó là một chiếc máy bay lớn ba động cơ, chiếc Giong-ke 52.
Bay sát mặt sóng, tôi trườn về phía nó, đến một cự ly thật gần, nó vẫn
chưa hề mảy may phản ứng. Tổ bay trên máy bay ném bom địch, rõ ràng
không ngờ rằng những máy bay tiêm kịch chúng tôi có thể tuần tiễu trên
biển trong thời tiết như vậy.
Loại đạn đầu tiên buộc chiếc Gioong-ke bổ nhào xuống nước. Loạt thứ
hai, nó bốc lửa và đâm xuống biển. Môtt tiếng nổ vang dội, và những đám
lửa cháy trên mặt nước.
Mấy phút sau, chúng tôi lại gặp một chiếc Gioong-ke khác: Tôi định
lượn tiến vào công kích thì chợt phát hiện ở phía chân trời một tốp máy
bay.
Làm thế nào đây?. Không còn nhiều xăng và chúng tôi cũng chỉ có khả
năng “chiếu cố” đến một trong đám khách mới đến. Không nên để chủng
nghi ngờ, vì bằng cách gì chúng tôi cũng không thể giải quyết hết bọn
chúng và sẽ lộ cho kẻ địch biết sự có mặt của chúng tôi trên đường bay này.
Những máy bay rơi xuống biển không thể kể lại cho ai biết những chiến