lắm với sư đoàn trưởng Đdút-xốp: ông đã quở trách tôi, không phải vì cái
trò xiếc, mà vì tôi đã làm như vậy trước mắt những phi công trẻ.
Lần này nữa, tôi lại là thủ phạm: tôi muốn biểu diễn cho một phi công
còn non xem tôi bay như thế nào. Và cậu ta đã bắt chước tôi ngay. Kết quả:
chúng tôi chỉ cách cái chết có hai ngón tay. Mà chết ở đâu? ở xa mặt trận,
trong một con sông nhỏ khốn khổ? Nghĩ đến mà buồn.
Tôi đưa đồng chí phi công về nhà. Gia đình anh không muốn để tôi ra đi
và mời tôi nghỉ qua đêm tại nhà. Không thể từ chối được.
Buổi chiều những người láng giềng đến thăm người bị nạn. Một bà đã có
tuổi, dáng người có học thức, cũng có mặt trong đám đông. Khi bắt tay tôi,
bà giới thiệu
- Ne-xtê-rô-va.
Tôi cố nén không hỏi ngay phải chăng bà có họ hàng với người phi công
Nga lừng danh Ne-xtê-rốp. Và như đoán được ý nghĩ trong mắt tôi, bà nói:
- Ne-xtê-rôp là cha tôi. Mời anh đến nhà, tôi sẽ giới thiệu anh với bà tôi;
cụ là mẹ đẻ của cha tôi.
Thế là một tai nạn ngu xuẩn đã dẫn tôi đến căn nhà ở của gia đình người
phi công Nga vĩ đại, quán quân của những trận không chiến, nhà sáng tạo
ra môn thắt vòng đứng và người đầu tiên trên thế giới lao máy bay vào đối
phương. Mọi người kể cho tôi nghe nhiều điều lý thú về ông, cho xem
nhiều bức ảnh hiếm có, và cho tôi một chiếc làm kỷ niệm...
Hôm sau, tôi gặp lại Gô-lu-bi-ép ở cửa nhà máy mà chúng tôi đến nhận
những máy bay tiêm kích La-5 mới toanh, rồi cùng đưa chúng về Mát-xcơ-
va. Bây giờ vấn đề là nghiên cứu xem có nên trang bị toàn bộ máy bay La
cho trung đoàn không.
Những chiếc La-5 tuyệt vời. Người phi công có giác quan thứ sáu, nhờ
đó anh ta có thể đánh giá máy bay về sức mạnh, tính dễ điều khiển, tất cả
sự cân đối hoàn hảo của nó. Tôi sung sướng kiểm tra các cò súng đại bác,
các thiết bị đồng hồ bay. Nếu những chiếc La-7 mà người ta hứa trang bị
cho chúng tôi còn hoàn hảo hơn, thì chúng tôi còn mong muốn gì nữa?