đám đông. Người cha ấy mang trong lòng cái yên lặng lớn lao của cả căn
nhà mình”.
Ông đưa mắt ngước nhìn mọi người. Ông cố tìm để nhận ra những người
trong bọn họ, những ai đang đi từng bước ngắn và dắt theo họ điều sáng tạo
hoặc tình yêu, và ông mơ màng nghĩ đến cảnh xa cách của những người
canh đèn biển.
Ông thấy hài lòng trước không khí im ả của các bàn giấy. Ông chậm rãi
đi ngang lần lượt từng phòng và tiếng bước chân ông vang lên lẻ loi.
Những chiếc máy chữ nằm ngủ yên dưới những túi vai chùm. Những tủ lớn
đóng kín che đậy các tập hồ sơ ngăn nắp. Mười năm kinh nghiệm và lao
động. Ông chợt nghĩ mình đang đi thăm những căn hầm nhà ngân hàng; đó
là nơi chứa nặng của cải. Ông nghĩ bụng, mỗi tập trong đống hồ sơ kia còn
tích lũy nhiều hơn cả vàng, một sức mạnh đang sống. Một sức mạnh đang
sống nhưng lại ngà ngà ngủ, cũng giống như vàng của các ngân hàng.
Ở đâu đây rồi ông sẽ gặp người nhân viên duy nhất đang trực đêm. Một
con người đang làm việc ở đâu đây để cho cuộc sống được liên tục, cho ý
chí được liên tục, và cứ như vậy từ trạm dừng này qua trạm dừng khác, để
cho từ Toulouse đến Boenos – Aires chuỗi mắt xích không khi nào bị đứt.
“Con người ấy không biết mình cao đẹp”.
Những con tàu thư đang vật lộn ở đâu đây. Ban đêm kéo dài như bệnh
tật: cần phải thức canh. Cần phải hỗ trợ những con người kia đang dùng
bàn tay và đầu gối, ngực kề ngực, đương đầu với bóng tối, và họ chẳng biết
gì nữa, họ chẳng biết gì hết ngoài những sự vật nổi trội, vô hình; và phải
dùng sức mạnh những cánh tay mù đặc tự kéo mình thoát ra như ra khỏi
biển. Đôi khi có những lời thú nhận khủng khiếp biết bao: “Tôi phải rọi
sáng vào hai bàn tay để nhìn thấy chúng…” Chất nhung những bàn tay chỉ
hiện hình khi tắm ánh sáng màu đỏ thợ ảnh. Đó là chút gì còn lại của thế
giới này và phải cứu vãn lấy.
Rivière đẩy tấm cửa mở vào phòng khai thác. Độc một ngọn đèn thắp
sáng ở một góc tạo thành một bãi biển sáng. Tiếng lách cách của chiếc máy