Nhưng chính ông đã phá tan chúng. Và mặc dầu vậy, một ngày nào đó, như
là định mệnh, các giáo đường vàng son kia sẽ tan vỡ như những ảo ảnh.
Tuổi già và cái chết hủy hoại chúng, còn tàn nhẫn hơn bản thân ông. Có lẽ
còn có cái gì khác nữa, bền dai hơn nhiều, để mà cứu vãn, phải chăng
Rivière hành động để cứu vãn cái phần đó của con người? Nếu không, hành
động sẽ không được biện minh.
“Yêu thương, chỉ yêu thương thôi, thật là lối cụt!” Rivière cảm thấy một
cách mơ hồ về một nghĩa vị còn cao cả hơn nghĩa vụ yêu thương. Hoặc giả
đóc cũng là một tình cảm dịu mềm nhưng khác biết bao so với những tình
âu yếm khác. Ông chợt nhớ một câu nói: “Vấn đề là làm cho những người
kia trở thành bất tử…” Ông đã đọc ở đâu điều đó? “Cái mà các người đeo
đuổi bên trong mình rồi sẽ chết”. Ông nhớ lại một đền thờ thần mặt trời củ
người Inca cổ xưa xứ Perou. Những tảng đá thẳng đứng trên núi. Nếu thiếu
chúng, liệu còn lại cái gì của một nền văn minh cường thịng đè nặng sức
của đá lên con người ngày nay như một sự ăn năn? “Nhân danh cái khắc
nghiệt gì, hoặc nhân danh cái tình yêu kỳ lạ nào, kẻ chăn dân xưa kia đã ép
buộc đám con dân kéo cả ngôi đền kia lên núi và áp đặt họ dựng nên hình
ảnh muôn đời của họ?” Rivière lại mơ màng nghĩ đến những đám đông ở
những thành phố bé nhỏ chiều chiều quẩn quanh bên quán nghe nhạc. “Cái
thứ hạnh phúc ấy, cái thứ bộ đồ thắng ngựa ấy…”, ông nghĩ. Người chăn
dân kia, nếu như không có chút tình thương trước khổ đau con người,
nhưng hẳn đã có tình thương mênh mông trước cái chết của con người, mà
thương hại cả chủng loại sẽ bị biển cát xóa sạch. Và con người ấy ít ra đã
dẫn dắt dân tộc họ dựng lên những tảng đá để hoang mạc cũng không vùi
lấp được.