John, ông nói xem?” Ông ta hét to vì chưa quen với tiếng ồn của thác nước.
John vểnh bộ ria mép màu xám lên, bịt kín hai lỗ mũi như để không phải
ngửi thấy vị tanh của con cá hồi trong tay tôi. Mô hôi chảy ròng ròng trên
má và cổ, thân sau của chiếc áo vest ướt đẫm, dính vào lưng. Ông ta viết gì
đó vào cuốn sổ tay, quay tại chỗ, ngắm nghía túp lều, bờ dậu, mảnh vườn
con trước nhà, những chiế́c xe sơn màu đỏ, những bộ váy tối thứ Bẩy màu
đỏ xanh vàng của má phơi trên dây, quay tròn một vòng đến khi ông ta lại
đối mặt với tôi, nhìn tôi như thể mới trông thấy lần đầu - mà tôi chỉ cách có
hai mét, nào phải xa xôi gì. Cúi về phía tôi, ông ta chớp mắt, lại vểnh bộ ria
lên và khịt mũi như đang ngửi thấy mùi tanh của tôi chứ không phải của
đống cá.
“Theo ông, bố mẹ nó ở đâu?” John hỏi. “Trong nhà? Hay ngoài thác
nước? Đã đến đây, chúng ta có thể bàn chuyện với ông chủ.”
“Tôi sẽ không bước vào túp lều này,” lão béo trả lời.
“Túp lều này,” John nói qua bộ ria, “là nơi ở của viên Thủ lĩnh,
Brickenridge ạ, người chúng ta cần tới gặp để tiế́n hành đàm phán, Thủ lĩnh
hào hiệp của bộ tộc này”
“Ðàm phán ư? Không phải là việc của tôi. Tôi lĩnh lương để đi định giá
chứ không phải đi gây tình bằng hữu.”
John cười vì câu trả lời đó.
“Đúng rồi, nhưng phải có ai đó thông báo cho họ về những kế hoạch của
nhà nước chứ?”
“Nếu họ chưa biết thì sẽ biết nhanh thôi.”
“Rất đơn giản mà, vào và tiếp chuyện với ông ta.”
“Vào cái hộp rác này ư? Tôi cam đoan trong đó nhung nhúc nhện độc.
Thế mà người ta bảo những túp lều này chứa đựng cả một nền văn minh
thực thụ trong các bức tường giữa hai lớp đất sét cơ đấy. Lạy Chúa, và
nóng. Tôi dám cá đây là cái lò nướng bánh. Ông nhìn kia, thằng bé
Hiawatha này đã bị nướng quá lửa. Ha - ha! Thậm chí còn hơi cháy nữa là
khác.”
Ông ta cười, tay chấm lên đầu nhưng lại nín bặt vì gặp cái nhìn của bà
già. Ông ta ho lên, khạc ra một bãi đờm và đi tới ngồi xuống chiếc đu mà ba
treo lên cây đỗ tùng cho tôi, khẽ đung đưa, tay phe phẩy chiếc mũ.