xuống, và đây câu bật lại lòng thuyền như một sợi chun.
“Lào đã bảo phải giữ cần câu thẳng đứng cơ mà. Vậy mà chú mày lại để
nó kéo nằm ngang. Vứt, hiểu không? Phải giữ cho đầu cần câu thẳng
đứng… thẳng đứng! Đáng ra chú mày đã câu được con cá khỏi chê, lạy
Chúa!”
Khi cuối cũng cũng chịu đưa cần câu cho Fredrickson, Sefelt đã run lẩy
bẩy mặt trắng bệch ra như sáp. “Thôi được, cầm lấy.. nhưng nế́u mày câu
được con cá có lưỡi câu trong miệng thì nhớ đấy là con trời đánh của tao.”
Tôi cũng hồi hộp không kém gì chúng. Tôi định không cầm cần, nhưng
khi nhìn thấy sức manh thép của con cả hồi ở đầu lưỡi câu thì cũng tụt khỏi
nóc ca bin, mặc áo vào và đợi đến lượt mình.
Scanlon bày trò cá cược: mỗi đứa chi năm mươi xu cho đứa câu được
con cá to nhất và đứa câu được con cá đầu tiên, nhưng hắn chưa kịp nhét
nắm tiền vào túi thì Billy đã kéo lên một con vật kỳ quái giống một con cóc
năm kí vói hàng gai nhím trên lưng.
“Ðây đâu phải là cá,” Scanlon cãi. “Không thể coi là mày thắng cuộc
được.”
“Thê đây là ch… chi… chim sao?”
“Ðấy là cá mú biể́n,” George nói vói chúng tôi. “Một loại cá ăn rất ngon
khi lột hết mụn cóc trên da.”
“Hiểu chưa? Ðây là cá! X… xì tiền ra.”
Billy trao cần câu cho tôi và lấy tiên, buồn bã nhìn vào cánh cửa ca bin
đóng im ỉm đang giam McMurphy và cô gái ở trong rồi ngồi xuống cạnh
đấy “T… ti… tiế́c quá, không đủ cần câu cho cả bọn,” hắn nói và tựa lưng
vào ca bin.
Tôi ngồi cầm cần câu, nhìn đây cước rải ra sau đuôi tàu. Ngữi mùi không
khí và tôi cảm thấy bốn hộp bia vừa uống đã làm chập các dây dẫn kiểm
soát bên trong: khắp quanh tôi, những con sóng bạch kim lấp lánh dưới ánh
mặt trời.
George gọi to kêu chúng tôi nhìn về phía trước, ở đó có thứ mà cả đội
đang săn lùng. Tôi quay sang nhưng chỉ thấy một khúc gỗ trôi vật vờ và
một bầy hải âu đang lượn tròn và ngụp lặn xung quanh như một đám lá đen
bị xoáy bụi cuốn vào. George hướng mũi thuyên đến đấy và tăng tốc độ,