hơi sương, rực rỡ ánh mặt trời.
Harding nói với McMurphy: “Chạy đi, lão không khóa cửa lại! Chạy
theo họ mau.”
McMurphy rên khừ khừ, mở một con mắt đỏ ngầu như tôm luộc. “Cậu
chế nhạo tớ đây hả? Đầu tớ bây giờ cũng không đút lọt cửa sổ, chứ nói gì
đến người.”
“Anh bạn thân mến của tôi, cậu hình như không hoàn toàn nhận thức
được…”
“Harding, cút đi với những lời lẽ thông minh của cậu. Bây giờ tớ chỉ có
mỗi một nhận thức - tớ vẫn còn nửa say nửa tỉnh. Và đang buồn nôn đây.
Ngoài ra, tớ nghĩ rằng cậu cũng đang say. Còn cậu, Thủ lĩnh, chắc cũng vậy
chứ?”
Tôi nói má và mũi tôi chẳng có cảm giác gì cả, nếu như có thể xem đó là
dấu hiệu.
McMurphy gật đầu một cái rồi tiếp tục nhắm mắt; hắn quàng hai tay ôm
ngang người, ngồi thụt sâu vào ghế bành, gục cằm xuống ngực. Rồi hắn tặc
lưỡi và mỉm cười, dường như thiu thiu ngủ. “Anh em,” hắn nói, “tất cả
chúng ta hãy còn say.”
Harding không thể nào yên tâm được. Hắn vẫn cố thuyết phục
McMurphy phải mau chóng mặc quần áo, trong khi thiên thần tốt bụng của
chúng ta còn đang bận rộn gọi cho gã bác sĩ kể về những việc vô lương tâm
vừa xảy ra ở phân khoa, nhưng McMurphy trả lời rằng không đáng phải
quan tâm như vậy: tình cảnh hắn không thể xấu hơn được nữa, đúng không?
“Tất cả những gì có thể, bọn chúng đã đem thết đãi tớ hết rồi,” hắn nói.
Harding phẩy tay và đi khỏi, vừa đi vừa nói về ngày tận thế.
Một tên hộ lý nhận thấy lưới cửa sổ mở bèn khóa lại, rồi đến phòng trực
và quay lại với cái cặp to tướng, dò tay theo danh sách, đọc họ tên, thoạt
tiên chỉ nhấp nháy môi, sau mới thành tiếng, mắt đưa tìm người ấy. Danh
sách được lập theo thứ tự A, B, C lật ngược để làm rối mọi người, và do vậy
mãi sau cùng hắn mới dò đến vần B. Hắn nhìn quanh phòng, ngón tay
không rời khỏi cái tên đứng cuối danh sách.
“Bibbit. Billy Bibbit đâu?” Mắt hắn tròn xoe. Hắn nghĩ Billy vừa lỉnh
mất ngay dưới mũi hắn và không thể nào bắt lại được. “Lũ ngốc các anh, ai