người chết đã năm mươi lăm năm nay.”
Mụ Y tá Trưởng xuyên qua suốt gian phòng, tiêm cho ông lão, mũi kim
đâm qua cả chiếc quần xanh. Mụ lùi phắt lại, không thèm rút cả kim tiêm ra
nên cái ống tiêm vẫn dính trên quần nom như cái đuôi nhỏ bằng thủy tinh
và thép; còn lão Pete càng ủ rũ hơn, càng gục đầu về phía trước, không phải
vì bị tiêm mà vì mệt mỏi, những phút cuối cùng đã vĩnh viễn vắt kiệt sức
lực của lão – chỉ cần nhìn cũng thấy rõ rằng lão đã tận số.
Vì thế mũi tiêm là thừa, cái đầu lão cứ thế lắc lư, còn đôi mắt mờ đục
mãi đi. Lúc mụ Y tá Trưởng đến để rút kim tiêm ra thì lão đã quỵ xuống
đến mức nước mắt rơi ngay trên sàn nhà, không chảy trên mặt; đầu lão lắc
lắc làm cho nước mắt vung ra tứ phía, nom như lão đang gieo những giọt
nước mắt. “Ôi!” Lão kêu lên. Và thậm chí không hề rùng mình khi kim tiêm
rút ra.
Lão đã quay trở về cuộc sống có lẽ chừng một phút để nói với chúng tôi
điều gì đó, nhưng chúng tôi một phần không muốn nghe, một phần chẳng
buồn suy nghĩ, và cố gắng đó đã làm lão quỵ. Mũi tiêm ở mông lão hoàn
toàn vô ích, như thể tiêm cho một người chết – tim không còn bơm nó đi,
mạch không còn truyền lên đầu, và bộ não không còn để mà chịu tác động
gì từ chất thuốc trong đó. Chẳng khác gì mụ tiêm vào cái xác mục rỗng.
“Tôi… mệt…”
“Nào. Nếu hai anh có can đảm thì hãy đưa ông Bancini đi. Ông ta sẽ ngủ
yên đấy.”
“… mệt kinh khủng.”
“Bác sĩ Spivey! Hộ lý Williams đã tỉnh. Cứu chữa cho anh ta đi nhé. Anh
ta bị gãy tay và vỡ đồng hồ.”
Sau đó và sau này nữa, lão Pete sẽ không bao giờ còn làm nên một
chuyện như vậy. Giờ đây mỗi khi ông lão bắt đầu làm ồn trong cuộc họp,
người ta vỗ về lão và lão yên ngay. Đôi lúc vẫn như xưa, lão đứng dậy, lắc
đầu và kêu rằng lão mệt nhưng đó không còn là lời trách móc, lời thú nhận
hay lời cảnh cáo – tất cả đã kết thúc; việc đó giống như một cái đồng hồ cũ
không còn chỉ được thời gian nữa nhưng vẫn chạy, với những chiếc kim
cong queo, các chữ số nhàn nhạt còn tiếng chuông thì tắt ngấm vì han gỉ,
cái đồng hồ cũ vô tích sự, tuy vẫn kêu tích tắc và khe khẽ, nhưng đã chẳng