cái đôi ủng kia chứ? Lại còn quần bò và cả áo sơ mi nỉ kia
nữa chứ - cái quái gì thế không biết?
Tôi nép vào sau hàng rào nhà hàng xóm và đứng nhìn hai
người chừng mười hay mười lăm phút gì đó, và, nói thật
nhé, càng nhìn tôi càng điên. Chỉ trong từng đấy thời gian
thôi nhưng rõ là ông đã nói chuyện với con bé còn nhiều
hơn tất cả những gì ông nói với tôi trong suốt một năm rưỡi
sống với gia đình tôi. Mà ông thì có chuyện gì để nói với Juli
Baker chứ?
Tôi đi về nhà. Đúng hơn là trèo qua hai cái hàng rào và đá
bay con chó ngu nhà hàng xóm. Nhưng đáng lắm chứ. Miễn
sao tôi tránh được, khỏi phải nhìn cảnh hội hè đình đám ở
cái sân phía bên kia đường.
Và một lần nữa tôi không tài nào làm nổi bài tập. Càng nhìn
tôi lại càng điên. Giờ thì tôi vẫn là thằng gà thộn khốn nạn
còn Juli thì đang cười nói tung giời với ông ngoại của tôi. Đã
bao giờ tôi thấy ông mỉm cười chưa? Thực sự mỉm cười ấy?
Chưa, chưa bao giờ! Nhưng giờ thì ông đứng đó, trông nhỏ
thó và cười ha hả.
Bữa tối hôm đó, sau khi tắm rửa xong, ông lại tròng bộ
quần áo thường ngày vẫn mặc và xỏ lại đôi dép lê, nhưng
trông ông khác. Cứ như thể có ai đó cám dây điện vào ông
và bật đèn lên vậy,
“Chào cả nhà”, ông nói lúc ngồi vào bàn ăn. “Ồ, Patsy, món
này trông ngon thế con!”
“Bố à”, mẹ cười rạng rỡ, “rõ là chuyến công du sang bên kia
đường làm bố khỏe hẳn ra ấy chứ”.
“Công nhận”, bố nói. “Patsy nói với con là ông sang đó cả
chiều. Nếu mà ông thích làm mấy thứ sửa sang nhà cửa thì