Nhưng khi cả cha xứ cũng đến và cuộc viếng thăm dai dẳng của cha đã
rút kiệt sức lực cô tôi, thì Françoise ra khỏi phòng theo sau Eulalie và bảo:
“Thưa bà Octave, cháu để bà nghỉ, bà có vẻ mệt nhiều đấy.”
Còn cô tôi thậm chí chẳng trả lời, trút ra một hơi thở dài dường như
phải là hơi thở cuối cùng, mắt nhắm lại, như đã chết. Nhưng Françoise vừa
xuống khỏi thì bốn tiếng chuông giật hết sức mạnh, vang lên trong nhà và cô
tôi, nhỏm dậy trên giường kêu to:
“Eulalie đi rồi sao? Bác có nghĩ là ta đã quên hỏi chị ta xem bà Goupil
có đến được buổi lễ trước lúc nâng bánh thánh hay không! Chạy theo chị ta
mau!”
Nhưng Françoise trở lại mà không đuổi kịp Eulalie.
“Rõ chán,” cô tôi lắc đầu nói. “Điều duy nhất quan trọng mà ta cần hỏi
chị ta!”
Cuộc đời trôi qua như vậy với cô Léonie của tôi, bao giờ cũng giống
hệt, trong trạng thái đơn điệu êm đềm của điều mà bà gọi với một niềm
khinh thị giả vờ và một sự trìu mến sâu xa là “nếp thường nho nhỏ” của bà.
Nếp thường này được tất cả mọi người gìn giữ, chẳng riêng trong nhà, ở đó
mỗi người do cảm thấy có khuyên bà một phép vệ sinh tốt hơn cũng vô ích,
nên dần dần đành tôn trọng nó, mà còn cả trong làng, cách chúng tôi ba con
phố, nơi người đóng hàng, trước khi đóng đinh các thùng hòm, cho đi hỏi
Françoise xem cô tôi có đang “nghỉ ngơi” hay không – vậy mà năm ấy cái
nếp này bị quấy rối một lần. Giống như một trái cây ẩn mình đến độ chín mà
mọi người chẳng nhận thấy và tự khắc rời cành, một đêm cô phụ bếp chợt
trở dạ. Nhưng cô đau không chịu nổi, và vì ở Combray không có nữ hộ sinh,
nên Françoise phải ra đi trước khi trời sáng để tìm một nữ hộ sinh tại
Thiberzy. Cô tôi không nghỉ ngơi được vì những tiếng kêu la cùa cô phụ
bếp, còn Françoise, dù khoảng cách không xa, song trở về rất muộn, khiến
bà thấy thiếu vắng bác nhiều lắm. Bởi thế, vào buổi sáng mẹ tôi bảo tôi:
“Con lên xem cô con có cần gì không”. Tôi bước vào gian phòng thứ nhất