Không danh không vị đã lâu ngày, danh lợi đang mong chưa được, vầng mây năm sắc sau Thu đến, cảnh
cũ nay đã thay mới.
122.
止止止, 有終有始, 似月如花, 守成而已.
Chỉ chỉ chỉ, hữu chung hữu thuỷ, tự nguyệt như hoa, thủ thành nhi dĩ.
Dừng dừng dừng, có đuôi có đầu, tợ trăng như hoa, bằng lòng hiện có.
123.
明月全圓, 顏色欣然, 風雲相送, 和合萬年.
Minh nguyệt toàn viên, nhan sắc hân nhiên, phong vân tương tống, hoà hợp vạn niên.
Trăng sáng tròn đầy, màu sắc đẹp tươi, mây gió đưa nhau, muôn năm hòa hợp.
124.
寶鏡新, 照兩人, 心中結, 合同心.
Bảo kính tân, chiếu lưỡng nhân, tâm trung kết, hợp đồng tâm.
Gương báu mới, soi hai người, lòng đã hợp, cùng quyết tâm.
125.
居下不親上, 人心易散離, 事機終失一, 凡百盡成灰.
Cư hạ bất thân thượng, nhân tâm dị tán ly, sự cơ chung thất nhất, phàm bách tận thành hôi.
Người dưới không thân người trên, lòng người càng dễ ly tán, công việc không hợp nhất, trăm thứ thành
tro bụi.
126.
兀兀塵埃久待時, 幽窗寂靜有誰知, 若逢青紫人相引, 財利功名自可期.
Ngột ngột trần ai cửu đãi thời, u song tịch tĩnh hữu thuỳ tri, nhược phùng thanh tử nhân tương dẫn, tài lợi
công danh tự khả kỳ.
Đau đáu trần ai chờ đã lâu, bằng lòng số phận mấy ai đâu, may ra gặp được người trên giúp, công danh
mới thỏa sự mong cầu.
127.
虎伏在路途, 行人莫亂呼, 路旁須仔細, 災禍自然無.
Hổ phục tại lộ đồ, hành nhân mạc loạn hô, lộ bàng tu tử tế, tai hoạ tự nhiên vô.
Hổ ẩn bên đường, người đi chẳng nên kêu la loạn xạ, chỉ nên bình tỉnh quan sát kỷ lưỡng hai bên đường,
tự nhiên tránh được tai họa.
128.
和不和, 同不同, 翻雲覆雨幾成空, 進退須防終少功.
Hoà bất hoà, đồng bất đồng, phiên vân phúc vũ kỷ thành không, tiến thoái tu phòng chung thiểu công.
Hòa chẳng hòa, đồng không đồng, mây đè mưa chụp thảy thành không, lui tới nên phòng rốt cuộc không.
129.
東邊事, 西邊成, 風物月華明, 高樓弄笛聲.
Đông biên sự, tây biên thành, phong vật nguyệt hoa minh, cao lâu lộng địch thanh.
Việc bên Đông, thành công bên Tây, cảnh vật đẹp trăng sáng, lầu cao nghe tiếng sáo.
130.
事團圓, 物周旋, 一來一往, 平步青天.
Sự đoàn viên, vật chu toàn, nhất lai nhất vãng, bình bộ thanh thiên.
Việc chu đáo, vật tròn đầy, một đi một đến, vững bước lên mây.
131.
淺水起風波, 平地生荊棘, 言語慮參商, 猶恐無端的.
Thiển thuỷ khởi phong ba, bình địa sanh kinh cức, ngôn ngữ lự sâm thương, do khủng vô đoan đích.
Nước cạn dậy sóng gió, đất bằng sinh gai chông, lời lẽ chia hai nẻo, nên sợ chẳng thuận dòng.
132.
秋月雲開後, 薰風雨過時, 若逢楚國舊知己, 等閒一薦不須疑.
Thu nguyệt vân khai hậu, huân phong vũ quá thời, nhược phùng Sở quốc cựu tri kỷ, đẳng nhàn nhất tiến
bất tu nghi.
Trăng thu mây hết che, mưa tạnh gió ấm thổi, nếu gặp cố tri nơi đất khách, nhờ người tiến dẫn chẳng hồ
nghi.
133.
心已定, 事何憂, 金鱗已上鉤, 功名一網收.
Tâm dĩ định, sự hà ưu, kim lân dĩ thướng câu, công danh nhất võng thu.
Tâm đã định, việc không phải lo gì, vảy vàng câu đã kéo lên, công danh thu đầy một lưới.
134.
意迷己不迷, 事寬心不寬, 要知端的信, 猶隔兩重山.
Ý mê kỷ bất mê, sự khoan tâm bất khoan, yếu tri đoan đích tín, do cách lưỡng trùng sơn.
Ý mê ta chẳng mê, việc rộng lòng không rộng, phải ráng chờ nghe tin chính xác, bởi vì đang ở cách xa ta.