Mừng rỡ chưa tròn, buồn đã đến, mưa to gió lốc thổi cây già, việc đời là vậy thắng bại là lẽ thường.
096.
可以寄百里之命, 可以托六尺之孤, 鍾期既遇毋遲誤.笑呼呼, 他鄉聚首, 各自樂康和.
Khả dĩ kí bách lý chi mệnh, khả dĩ thác lục xích chi cô, chung kỳ kí ngộ vô trì ngộ, tiếu hô hô, tha hương
tụ thủ, các tự lạc khang hoà.
Muôn dặm tìm ra chỗ náu thân, cô đơn đã hết, có người gần, hồi chuông vang báo tin mừng đến, thôi chớ
hồ nghi chuyện ái ân.
097.
報導上林, 春色鮮明, 提鞭快著, 馬上行程.
Báo đạo thượng lâm, xuân sắc tiển minh, đề tiên khoái trước, mã thượng hành trình.
Bảo cho người biết, xuân sắc tốt tươi, mau roi lên ngựa, đường trước thẳng xông.
098.
鼠入土穴, 最可安身, 日中不見, 靜夜巡行.
Thử nhập thổ huyệt, tối khả an thân, nhật trung bất kiến, tĩnh dạ tuần hành.
Chuột đã vào hang, mừng được thân an, ngày ngày lẩn khuất tìm đâu thấy, đêm đến lần ra có ngại gì.
099.
打起平生志, 西南好去遊, 腰纏十萬貫, 騎鶴上揚州.
Đả khởi bình sanh chí, tây nam hảo khứ du, yêu triền thập vạn quán, kỵ hạc thướng Dương Châu.
Muốn thỏa chí bình sanh, đi hướng Tây Nam thỏa ước mong, lưng đeo tiền muôn vạn, cỡi hạc tới Dương
Châu.
100.
喜喜喜, 終防否, 獲得驪龍頷下珠, 忽然失卻, 還在水裏.
Hỉ hỉ hỉ, chung phòng bĩ, hoạch đắc li long hàm hạ châu, hốt nhiên thất khước, hoàn tại thuỷ lí.
Đương cơn vận tốt trùng trùng, coi chừng vận bĩ, được ly châu (hạt châu đeo dưới cổ con ly long, tương
truyền rất quí giá), đột nhiên bị mất, rơi ở dưới nước.
101.
國有賢士, 廷無佞臣, 干戈不用, 常享太平.
Quốc hữu hiền sĩ, đình vô nịnh thần, can qua bất dụng, thường hưởng thái bình.
Trong nước có hiền sĩ, triều đình không tôi nịnh, không có chiến tranh, thường được hưởng thái bình.
102.
泰來否已極, 諸事莫憂心, 但須 養元福, 做些好事, 行些方便, 一點丹靈獨得真.
Thái lai bĩ dĩ cực, chư sự mạc ưu tâm, đản tu dưỡng nguyên phước, tố ta hảo sự, hành ta phương tiện,
nhất điểm đan linh độc đắc chân.
Hết bĩ thì đến thái, mọi việc chớ lo âu, siêng năng làm tạo phước đức, làm việc thiện cho nhiều, tâm linh
tốt đẹp, nhất định được “Chân” (điều tốt).
103.
民樂業, 官吏清, 雍熙之世複見於今, 告諸人千秋鴻業, 仗此望明君.
Dân lạc nghiệp, quan lại thanh, ung hi chi thế phức kiến ư kim, cáo chư nhân thiên thu hồng nghiệp,
trượng thử vọng minh quân.
Dân sống yên ổn, quan lại thanh liêm, nay được thấy đời Ung Hi, báo cho người biết sự nghiệp phát triển
tốt đẹp, ráng mà phò vua sáng.
104.
安如泰山, 穩如磐石, 放膽前行, 中通外直.
An như thái sơn, ổn như bàn thạch, phóng đảm tiền hành, trung thông ngoại trực.
Vững như Thái Sơn, yên như ngồi bàn đá, không sợ phía trước, bên trong thông suốt bên ngoài thẳng
xông.
105.
月中有丹桂, 人終攀不著, 雲梯足下生, 此際好落腳.
Nguyệt trung hữu đan quế, nhân chung phan bất trước, vân thê túc hạ sinh, thử tế hảo lạc cước.
Trong trăng có đan quế, phiền phức chẳng đeo người, nấc thang chân leo vững, an ổn đến nơi cao.
106.
天間一孤雁, 嘹唳歎離群, 試問知君者, 而今有幾人.
Thiên gian nhất cô nhạn, liêu lệ thán ly quần, thí vấn tri quân giả, nhi kim hữu kỷ nhân.
Nhạn lẻ chốn nhân gian, lìa đàn cô quạnh than, hỏi ai người biết, trong trần có mấy người tri âm.
107.
紅葉無顏色, 凋零一夜風, 鄰雞醒午夢, 心事總成空.
Hồng diệp vô nhan sắc, điêu linh nhất dạ phong, lân kê tỉnh ngọ mộng, tâm sự tổng thành không.
Lá đỏ không nhan sắc, gió đêm thổi rụng rồi, gà hàng xóm gáy ban trưa làm tỉnh mộng, vẩn vơ tâm sự.
108.
事如麻, 理多錯, 日掩雲中, 空成耽擱.
Sự như ma, lý đa thác, nhật yểm vân trung, không thành đảm các.