135.
笑中生不足, 內外見愁哭, 雲散月光輝, 轉禍當成福.
Tiếu trung sanh bất túc, nội ngoại kiến sầu khốc, vân tán nguyệt quang huy, chuyển hoạ đương thành
phúc.
Trong cười sinh chưa đủ, trong ngoài thấy sầu khóc, mây tan trăng sáng rồi, đang chuyển họa thành
phúc.
136.
簷前鵲噪正翩翩, 憂慮全消喜自然, 一人進了一人退, 下梢還有好姻緣.
Thiềm tiền thước táo chính phiên phiên, ưu lự toàn tiêu hỉ tự nhiên, nhất nhân tiến liễu nhất nhân thoái,
hạ tiêu hoàn hữu hảo nhân duyên.
Chim khách vù vù bay trước thềm, lo lắng mất đi tự nhiên vui, một tiến một lùi người khác tính, sau rồi
cũng nên gia thất.
137.
荊棘生平地, 風波起四方, 倚欄惆悵望, 無語對斜陽.
Kinh cức sanh bình địa, phong ba khởi tứ phương, ỷ lan trù trướng vọng, vô ngữ đối tà dương.
Đất bằng mọc cây gai, sóng gió dậy bốn phương, dựa cột buồn chờ đợi, chẳng nói gì trước cảnh tà dương.
138.
謀已定, 事何憂, 照月上重樓, 雲中客點頭.
Mưu dĩ định, sự hà ưu, chiếu nguyệt thướng trùng lâu, vân trung khách điểm đầu.
Mưu đã định, việc không phải lo gì, trăng chiếu soi lầu cao, trong mây khách vái chào.
139.
奇奇奇, 地利與天時, 燈花傳信後, 動靜總相宜.
Kì kì kì, địa lợi dữ thiên thời, đăng hoa truyền tín hậu, động tĩnh tổng tương nghi.
Lạ lạ lạ, địa lợi và thiên thời, hoa đèn truyền tín hiệu, động tĩnh cả hai đều nên.
140.
遇不遇, 逢不逢, 月沈海底, 人在夢中.
Ngộ bất ngộ, phùng bất phùng, nguyệt trầm hải để, nhân tại mộng trung.
Không gặp gỡ, chẳng gần nhau, trăng chìm đáy nước, người trong giấc mộng.
141.
暗中防霹靂, 猜慮渾無實, 轉眼黑雲收, 擁出扶桑日.
Ám trung phòng tích lịch, sai lự hồn vô thực, chuyển nhãn hắc vân thu, ủng xuất phù tang nhật.
Trong tối ngừa sấm sét, đoán nhầm sự thực, chớp mắt mây đen tan, mặt trời đang xuất hiện.
142.
利在中邦出戰時, 一番獲饋在王庭, 鳳銜丹詔歸陽畔, 得享佳名四海榮.
Lợi tại trung bang xuất chiến thời, nhất phiên hoạch quỹ tại vương đình, phượng hàm đan chiếu qui dương
bạn, đắc hưởng giai danh tứ hải vinh.
Lợi ở nước đứng giữa khi có chiến tranh, một phen đem đồ vật biếu xén chốn cung vua, chim phượng ở
Hàm Đan truyền chiếu chỉ đến đất Dương Quy, hưởng được tiếng tốt khắp bốn biển.
143.
堪歎外邊憂, 更嗟門裏鬧, 意緒更牽纏, 心神亦顛倒.
Kham thán ngoại biên ưu, cánh ta môn lí náo, ý tự cánh khiên triền, tâm thần diệc điên đảo.
Đang lo rầu chuyện bên ngoài, nào ngờ trong nhà động, ý vương vấn lo phiền, tâm thần cũng điên đảo.
144.
一重山一重水, 風波道坦然, 壺中有別天.
Nhất trùng sơn nhất trùng thuỷ, phong ba đạo thản nhiên, hồ trung hữu biệt thiên.
Lớp lớp non trùng trùng nước, đường sóng gió vẫn an nhiên, trong bình kín có trời riêng.
145.
遇險不須憂, 風波何足忌, 若遇草頭人, 咫尺青雲路.
Ngộ hiểm bất tu ưu, phong ba hà túc kị, nhược ngộ thảo đầu nhân, chỉ xích thanh vân lộ.
Gặp hiểm chẳng nên lo, sóng gió không đủ kỵ, nếu gặp người đầu cỏ, thoáng chốc thuận đường mây (Chỉ:
thước, nhà Chu định tám tấc gọi là một chỉ. Xích: thước, mười tấc là một thước).
146.
船棹中流急, 花開春又離, 事寧心不靜, 惹起許多疑.
Thuyền trạo trung lưu cấp, hoa khai xuân hựu ly, sự ninh tâm bất tĩnh, nặc khởi hứa đa nghi.
Thuyền bơi trong dòng gấp, hoa nở Xuân lại lìa, việc an tâm chẳng vững, khởi lên ý hồ nghi.
147.
可蓄可儲, 片玉寸珠, 停停穩穩, 前遇良圖.
Khả súc khả trừu, phiến ngọc thốn châu, đình đình ổn ổn, tiền ngộ lương đồ.
Có thể thu vào hay phát ra, tấc châu mảnh ngọc, an tâm cất bước mà lo liệu, trước mắt cơ đồ tốt.
148.
小子早趨庭, 青雲久問程, 貴人來助力, 花謝子還成.
Tiểu tử tảo xu đình, thanh vân cửu vấn trình, quí nhân lai trợ lực, hoa tạ tử hoàn thành.