271.
禍來見鬼, 鬼病淹纏, 金羊得路, 身脫災殃.
Hoạ lai kiến quỉ, quỉ bệnh yêm triền, kim dương đắc lộ, thân thoát tai ương.
Họa đến thấy quỉ, bệnh quỉ triền miên, dê vàng được đường, thân thoát tai ương.
272.
急起行, 急起行, 前途去, 結同盟, 只手擎天柱, 史冊好標名.
Cấp khởi hành, cấp khởi hành, tiền đồ khứ, kết đồng minh, chỉ thủ kình thiên trụ, sử sách hảo tiêu danh.
Gấp lên đường, gấp lên đường, đường trước mắt, kết đồng minh, tay đỡ trụ chống trời, sử sách nêu danh
tốt.
273.
深山據猛虎, 虎嘯出山窩, 揚威抖擻, 何怕人多.
Thâm sơn cứ mãnh hổ, hổ khiếu xuất sơn oa, dương uy đẩu tẩu, hà phạ nhân đa.
Mãnh hổ ở rừng sâu, hổ gầm thành hang núi, uy thế phấn chấn, nào sợ người đông.
274.
三天門, 四地戶, 佈陣成, 明聚路, 軍馬齊奔, 鳴鼓進步.
Tam thiên môn, tứ địa hộ, bố trận thành, minh tụ lộ, quân mã tề bôn, minh cổ tiến bộ.
Ba cửa trời, bốn cửa đất, bày thành trận, sáng rực đường, quân và ngựa đồng hợp chạy, trống thúc tiến
lên.
275.
山山山, 山上建茅 , 不比人間棟宇, 卻如天上雲曇.
Sơn sơn sơn, sơn thượng kiến mâu, bất tỉ nhân gian đống vũ, khước như thiên thượng vân đàm.
Núi núi núi, trên núi thấy cỏ tranh, chẳng bì với nhà cửa to lớn của người, mà những thứ đó chỉ là mây
trùm (mây bủa) trên trời thôi.
276.
來去原無定處, 時來時去安身, 跋涉無慮, 榮辱不計.
Lai khứ nguyên vô định xứ, thời lai thời khứ an thân, bạt thiệp vô lự, vinh nhục bất kế.
Đi lại không nơi nhất định, giờ đi giờ đến an thân, lăn lóc không lo, vinh nhục chẳng màng.
277.
有子長, 成水局, 時遇火反發福, 不必過憂煎, 人心苦不足.
Hữu tử trưởng, thành thuỷ cục, thời ngộ hoả phản phát phúc, bất tất quá ưu tiễn, nhân tâm khổ bất túc.
Có con lớn, thành thủy cục rồi thì dù gặp hỏa phản lại cũng phát phúc mà thôi, chẳng cần phải lo lắng
nhiều, cái khổ con người nói sao cho hết.
278.
黑夜裏, 勿前往, 一有值, 要著慌, 牢牢記, 須結黨.
Hắc dạ lí, vật tiền vãng, nhất hữu trị, yêu trước hoảng, lao lao kí, tu kết đảng.
Trong đêm tối, chớ đi tới, biết điều này, không còn sợ, nếu phải đi, cần có bạn.
279.
蟄龍已出世, 頭角首生成, 雲興雨澤, 得濟蒼生.
Chập long dĩ xuất thế, đầu giác thủ sinh thành, vân hưng vũ trạch, đắc tể thương sinh.
Rồng ẩn đã xuất thế, sừng đầu trước đã thành, mây nổi mưa ao đầm, cứu sống được người.
280.
火勢薰天, 天邊盡赤, 遇際水源, 庶乎成格.
Hoả thế huân thiên, thiên biên tận xích, ngộ tế thuỷ nguyên, thứ hồ thành cách.
Thế lửa hực trời, chân trời ngụt đỏ, may gặp nước nguồn, thì là có cách.
281.
向南有大道, 乘馬入杭城, 不知吳人唱, 更有一知音.
Hướng nam hữu đại đạo, thừa mã nhập hàng thành, bất tri ngô nhân xướng, cánh hữu nhất tri âm.
Về phía Nam có đường lớn, cỡi ngựa vào thành Hàng Châu, chẳng biết người Ngô hát, nhưng lại có tri âm.
282.
有田一畝, 盡可耕耘, 無窮收穫, 都在西成.
Hữu điền nhất mẫu, tận khả canh vân, vô cùng thu hoạch, đô tại tây thành.
Có một mẫu ruộng, hết sức cày cấy, thu hoạch được nhiều, đều ở thành Tây.
283.
勿嫌兒無唇, 疾足追不及, 納入猿穴中, 走狗何處覓.
Vật hiềm nhi vô thần, tật túc truy bất cập, nạp nhập viên huyệt trung, tẩu cẩu hà xứ mịch.
Đừng ghét con thiếu môi, chân què đuổi chẳng kịp, nếu vào trong hang vượn, chó biết đâu mà tìm.
284.
六牛耕地, 墾開無疆, 收成結實, 盈稟盈倉.
Lục ngưu canh địa, khẩn khai vô cương, thu thành kết thực, doanh bẩm doanh thương.
Sáu trâu cày đất, mở mang ruộng đất rất nhiều, thu được kết quả, đầy kho đầy vựa.