285.
大奮沖天志, 勿苦戀家鄉, 七八君行早, 揚武在沙場.
Đại phấn xung thiên chí, vật khổ luyến gia hương, thất bát quân hành tảo, dương vũ tại sa trường.
Gắng sức hoàn thành chí lớn, đừng quá lưu luyến quê hương, bảy tám quân lên đường sớm, biểu dương
sức mạnh tại sa trường.
286.
葵花向日, 忠赤傾心, 大開廣廈, 樂享太平.
Quì hoa hướng nhật, trung xích khuynh tâm, đại khai quảng hạ, lạc hưởng thái bình.
Hoa quì hướng mặt trời, lòng trung đỏ cả cõi lòng, mở mang sự nghiệp rộng lớn, vui hưởng cảnh thái bình.
287.
人不識仙, 那有真訣, 一入玄門, 津津有益.
Nhân bất thức tiên, na hữu chân quyết, nhất nhập huyền môn, tân tân hữu ích.
Người chẳng biết Tiên, khi có ấn quyết chân chính, một lần vào cửa huyền, bến sông nào cũng có ích.
288.
勿謂說話太沈, 泥了就不成真, 悟出千般奧妙, 方識仙道最神.
Vật vị thuyết thoại thái trầm, nê liễu tựu bất thành chân, ngộ xuất thiên ban áo diệu, phương thức tiên
đạo tối thần.
Đừng bảo lời nói quá thâm trầm, chỉ có bùn thì làm sao thành sự thật, hiểu được sự ảo diệu của thiên ban,
mới biết rằng đạo Tiên rất “Thần Diệu”.
289.
功名雖多實際, 何如修煉成真, 真身不朽, 萬載長春.
Công danh tuy đa thực tế, hà như tu luyện thành chân, chân thân bất hủ, vạn tải trường xuân.
Công danh thấy nhiều thực tế, sao bằng tu luyện thành chân, thân thật chẳng hư hoại, muôn năm vẫn
trường xuân.
290.
走走走, 遇一狗, 急思尋, 可長久.
Tẩu tẩu tẩu, ngộ nhất cẩu, cấp tư tầm, khả trường cửu.
Chạy chạy chạy, gặp con chó, gấp suy nghĩ tìm hiểu, có thể được trường cửu.
291.
不知真消息, 消息驀地來, 月圓月缺夜, 不許把門開.
Bất tri chân tiêu tức, tiêu tức mộ địa lai, nguyệt viên nguyệt khuyết dạ, bất hứa bả môn khai.
Tin thư xác thực biết đâu là, từ chốn xa xăm mới nhận qua, xoay chuyển trăng tròn rồi lại khuyết, chưa
nên hứa mở cửa.
292.
火旺處要不疲, 水深處要不呆, 到頭當酌量, 毋得惹他災.
Hoả vượng xứ yếu bất bì, thuỷ thâm xứ yếu bất ngốc, đáo đầu đương chước lượng, vô đắc nhạ tha tai.
Chỗ lửa mạnh không thể lao vào, chỗ nước sâu không thể không biết, việc đến phải lo lường tính toán,
mới khỏi bị thiệt hại.
293.
賓雁 湖地成陸, 行建功勳早回程, 貪戀終非世人福, 莫教雞鶩會相爭.
Tân nhạn hồ địa thành lục, hành kiến công huân tảo hồi trình, tham luyến chung phi thế nhân phước, mạc
giao kê vụ hội tương tranh.
Chim nhạn bay trên mặt hồ, làm xong công việc sớm trở về, nếu cứ tham luyến nó chẳng phải là phước
của con người, như vậy mới tránh được sự tranh dành lẫn nhau giữa gà và vịt trời.
294.
天上風, 天邊月, 月白風清, 兩兩相當.
Thiên thượng phong, thiên biên nguyệt, nguyệt bạch phong thanh, lưỡng lưỡng tương đương.
Gió trên trời, trăng ven trời, trăng thanh gió mát, hai thứ tương đương.
295.
葉歸根, 長立天地, 水清源長流河海, 人得金丹長生淵涯.
Diệp qui căn, trưởng lập thiên địa, thuỷ thanh nguyên trường lưu hà hải, nhân đắc kim đan trường sinh
uyên nhai.
Lá tốt là nhờ rễ ăn sâu, thông suốt lẽ trời đất, nước trong có nguồn cội dài thì chảy khắp sông hồ biển
rộng, người được kim đan thì sống lâu nơi động Tiên.
296.
乘馬去長安, 看花花正發, 一日雨來淋, 香色盡凋零.
Thừa mã khứ trường an, khán hoa, hoa chính phát, nhất nhật vũ lai lâm, hương sắc tận điêu linh.
Cỡi ngựa đến Trường An, xem hoa, hoa đang lúc nở, ngày kia mưa rớt xuống, hương sắc phải điêu tàn.
297.
木長春天根幹老, 子實三秋枝葉凋, 不凋不謝, 不見根牢.
Mộc trưởng xuân thiên căn cán lão, tử thực tam thu chi diệp điêu, bất điêu bất tạ, bất kiến căn lao.