BÍ BẢN GIA CÁT THẦN SỐ - Trang 25

310.

四十餘年苦已深, 而今汝樂度光陰, 莫籌論, 恩愛尚多歡喜事, 惜甚青春, 不減青春.

Tứ thập dư niên khổ dĩ thâm, nhi kim nhữ lạc độ quang âm, mạc trù luận, ân ái thượng đa hoan hỉ sự, tích
thậm thanh xuân, bất giảm thanh xuân.

Hơn bốn mươi năm khổ đã nhiều, mà nay mới được hưởng ngày vui, đừng lo tính, nhiều năm ân ái vui
chung hưởng, tiếc nuối thuở thanh xuân, đâu thể nào níu kéo lại được.


311.

三冬足, 文藝精, 到頭處, 亦成冰, 急急回首, 勿誤前程.

Tam đông túc, văn nghệ tinh, đáo đầu xứ, diệc thành băng, cấp cấp hồi thủ, vật ngộ tiền trình.
Ba mùa Đông vừa đủ, nghề văn đã tinh thông, việc đến lúc sau cùng, bổng trở thành băng giá, mau hồi

đầu tỉnh ngộ, đừng đi tiếp mà lầm lẫn.

312.

奇怪奇怪, 前番來了, 今番又來, 謹慎提防, 勿被弄壞.

Kỳ quái kỳ quái, tiền Phiên lai liễu, kim Phiên hựu lai, cẩn thận đề phòng, vật bị lộng hoại.

Kỳ quái kỳ quái, giặc Phiên trước đến rồi, nay lại giặc Phiên đến, cẩn thận đề phòng, đừng xem thường nó
mà nguy hiểm.

313.

耕牛伏 , 辟土開疆, 坐看收穫, 黍稷稻梁.

Canh ngưu phục, tích thổ khai cương, toạ khan thu hoạch, thử tắc đạo lương.
Trâu cày nằm, đất vua mở ranh giới, ngồi chờ thu hoạch, lúa nếp lương thực.

314.

腰下佩青萍, 步入金鑾殿, 覆護三山, 千錘百鏈.

Yêu hạ bội thanh bình, bộ nhập kim loan điện, phúc hộ tam sơn, thiên truỳ bách liên.
Lưng đeo đai “bèo xanh”, bước vào điện Kim Loan, che chở cho ba núi, ngàn cây chùy, trăm dây xích.

315.

雛鳥飛高, 出谷遷喬, 龍神牙爪, 變化海島.

Sồ điểu phi cao, xuất cốc thiên kiều, long thần nha trảo, biến hoá hải đảo.
Chim non bay cao, ra khỏi hang ổ, răng móng long thần, biến hóa hải đảo.

316.

吉吉吉, 尋常一樣窗前月, 凶凶凶, 有了梅花便不同, 含笑向東風, 人情不比舊時濃.

Cát cát cát, tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt, hung hung hung, hữu liễu mai hoa tiện bất đồng,
hàm tiếu hướng đông phong, nhân tình bất tỉ cựu thời nồng.
Tốt tốt tốt, một dạng tầm thường, trăng trước cửa sổ, xấu xấu xấu, có những hoa mai không giống nhau,

hướng về gió đông mà nở ra (như nụ cười), nhân tình ngày nay không còn nồng hậu như xưa nữa.

317.

大火炎炎, 宜水相濟, 寶鼎丹成, 掀天揭地.

Đại hoả viêm viêm, nghi thuỷ tương tế, bảo đỉnh đan thành, hân thiên yết địa.

Lửa lớn hừng hực, được nước cứu chữa, giữ vẹn được cái đỉnh, báo cho trời đất biết.

318.

鐵索一條, 未把孤舟系, 金刀一下, 早把頭落地.

Thiết tác nhất điều, vị bả cô châu hệ, kim đao nhất hạ, tảo bả đầu lạc địa.

Một sợi tơ sắt, có thể buộc được chiếc thuyền lẻ, một phen hạ lưỡi đao vàng, có thể làm rơi cái đầu xuống
đất.


319.

十二時中, 緊急煉著, 一刻少延, 無處下脚 .

Thập nhị thời trung, khẩn cấp luyện trước, nhứt khắc thiểu diên, vô xứ hạ cước.
Mười hai giờ ấy có là bao, hãy gấp dự phòng mưu chước cao, một phút dần dà e hiểm hoạ, rồi đây không

lối đặt chân vào.

320.

風起西南, 紅日當天, 奇門妙訣, 一掌能著.

Phong khởi Tây nam, hồng nhật đương thiên, kỳ môn diệu quyết, nhất chưởng năng trước.

Gió khởi hướng Tây nam, mặt trời hồng ở trên trời, có được “diệu quyết” của pháp “Kỳ Môn” rồi, một
chưởng là có thể nắm lấy.

321.

萬籟無聲際, 一月正當空, 忽被雲遮掩, 皓魄反朦朧.

Vạn lại vô thanh tế, nhất nguyệt chính đương không, hốt bị vân già yểm, hạo phách phản mông lung.
Có miệng mà chẳng mở lời được, mặt trăng đang ở trên không, bỗng bị mây che ám, khiến cho ánh sáng
trở thành mờ ảo không rõ.


322.

一個知音, 卻在天邊等, 切勿因循, 靜夜當思省.

Nhất cá tri âm, khước tại thiên biên đẳng, thiết vật nhân tuần, tĩnh dạ đương tư tỉnh.
Một kẻ tri âm, đã từ giã ở tận chân trời, chớ để tái phạm, đêm vắng đang mong nhớ ai.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.